Biểu trưng YouVersion
Biểu tượng Tìm kiếm

Công-vụ 13:1-52

Công-vụ 13:1-52 Kinh Thánh Tiếng Việt 1925 (VIE1925)

Trong Hội-thánh tại thành An-ti-ốt có mấy người tiên-tri và mấy thầy giáo-sư, tức là: Ba-na-ba, Si-mê-ôn gọi là Ni-giê, Lu-si-út người Sy-ren, Ma-na-hem là người đồng-dưỡng với vua chư-hầu Hê-rốt, cùng Sau-lơ. Đương khi môn-đồ thờ-phượng Chúa và kiêng ăn, thì Đức Thánh-Linh phán rằng: Hãy để riêng Ba-na-ba và Sau-lơ đặng làm công-việc ta đã gọi làm. Đã kiêng ăn và cầu-nguyện xong, môn-đồ bèn đặt tay trên hai người, rồi để cho đi. Vậy, Sau-lơ và Ba-na-ba đã chịu Đức Thánh-Linh sai đi, bèn xuống thành Sê-lơ-xi, rồi từ đó đi thuyền đến đảo Chíp-rơ. Đến thành Sa-la-min, hai người giảng đạo Đức Chúa Trời trong các nhà hội của người Giu-đa; cũng có Giăng cùng đi để giúp cho. Trải qua cả đảo cho đến thành Ba-phô rồi, gặp một người Giu-đa kia, là tay thuật-sĩ và tiên-tri giả, tên là Ba-Giê-su, vốn ở với quan trấn-thủ tên là Sê-giút Phau-lút là người khôn-ngoan. Người nầy đã sai mời Ba-na-ba và Sau-lơ đến, và xin nghe đạo Đức Chúa Trời. Nhưng Ê-ly-ma, tức là thuật-sĩ (ấy là ý-nghĩa tên người), ngăn hai người đó, ráng sức tìm phương làm cho quan trấn-thủ không tin. Bấy giờ, Sau-lơ cũng gọi là Phao-lô, đầy-dẫy Đức Thánh-Linh, đối mặt nhìn người, nói rằng: Hỡi người đầy mọi thứ gian-trá và hung-ác, con của ma quỉ, thù-nghịch cùng cả sự công-bình, ngươi cứ làm hư đường thẳng của Chúa không thôi sao? Nầy, bây giờ tay Chúa giá trên ngươi; ngươi sẽ bị mù, không thấy mặt trời trong ít lâu. Chính lúc đó, có sự mù-mịt tối-tăm phủ trên người, người xây quanh bốn phía, tìm kẻ để dắt mình. Quan trấn-thủ thấy sự đã xảy đến, bèn tin, lấy làm lạ về đạo Chúa. Phao-lô với đồng-bạn mình xuống thuyền tại Ba-phô, sang thành Bẹt-giê trong xứ Bam-phi-ly. Nhưng Giăng lìa hai người, trở về thành Giê-ru-sa-lem. Về phần hai người, thì lìa thành Bẹt-giê, cứ đi đường đến thành An-ti-ốt xứ Bi-si-đi; rồi nhằm ngày Sa-bát, vào trong nhà hội mà ngồi. Vừa đọc sách luật và sách các tiên-tri xong, các chủ nhà hội sai sứ nói cùng hai người rằng: Hỡi anh em, nếu có mấy lời khuyên bảo dân-chúng, hãy giảng đi. Phao-lô bèn đứng dậy, lấy tay làm hiệu, rồi nói rằng: Hỡi người Y-sơ-ra-ên và các người kính-sợ Đức Chúa Trời, hãy nghe: Đức Chúa Trời của dân Y-sơ-ra-ên nầy đã chọn tổ-phụ chúng ta; làm cho dân ấy thạnh-vượng lúc ở ngụ nơi ngoại-quốc, tức là trong xứ Ê-díp-tô, và Ngài dùng cánh tay cao dẫn họ ra khỏi xứ đó. Ước chừng bốn mươi năm, Ngài chịu tánh-nết họ trong nơi đồng vắng. Lại khi đã phá bảy dân trong xứ Ca-na-an, Ngài khiến họ nhận lấy đất của các dân đó, Độ trong bốn trăm năm mươi năm; kế đó Ngài lập cho họ các quan đoán-xét cho đến đời tiên-tri Sa-mu-ên. Bấy giờ, dân đó xin một vị vua, nên Đức Chúa Trời ban Sau-lơ, con của Ki-sơ, về chi-phái Bên-gia-min, trị họ trong bốn mươi năm; đoạn, Ngài bỏ vua đó, lại lập Đa-vít làm vua, mà làm chứng về người rằng: Ta đã tìm thấy Đa-vít con của Gie-sê, là người vừa lòng ta, người sẽ tuân theo mọi ý-chỉ ta. Theo lời hứa, Đức Chúa Trời bèn bởi dòng-dõi người mà dấy lên cho dân Y-sơ-ra-ên một Cứu-Chúa, tức là Đức Chúa Jêsus. Trước khi Đức Chúa Jêsus chưa đến, Giăng đã giảng-dạy phép báp-têm về sự ăn-năn cho cả dân Y-sơ-ra-ên. Giăng đang lo làm trọn công-việc mình, thì nói rằng: Ta chẳng phải là Đấng mà các ngươi tưởng; nhưng có Đấng đến sau ta, ta chẳng xứng-đáng mở dây giày Ngài. Hỡi anh em, là con cháu dòng Áp-ra-ham, và kẻ kính-sợ Đức Chúa Trời, lời rao-truyền sự cứu-chuộc nầy đã phán cho chúng ta vậy. Vì dân và các quan ở thành Giê-ru-sa-lem chẳng nhìn biết Đức Chúa Jêsus nầy, nên lúc xử tội Ngài, chúng đã ứng-nghiệm lời của các đấng tiên-tri mà người ta thường đọc trong mỗi ngày Sa-bát. Dầu trong Ngài chẳng tìm thấy cớ gì đáng chết, họ cứ xin Phi-lát giết Ngài đi. Họ đã làm cho ứng-nghiệm mọi điều chép về Ngài rồi, thì hạ Ngài xuống khỏi thập-tự-giá mà chôn trong mả. Song Đức Chúa Trời đã làm cho Ngài từ kẻ chết sống lại. Những kẻ theo Ngài từ xứ Ga-li-lê lên thành Giê-ru-sa-lem đã được thấy Ngài lâu ngày, và hiện nay đều làm chứng về Ngài giữa dân-chúng. Còn chúng tôi, thì rao-truyền cho các anh em tin lành nầy về lời hứa ban cho tổ-phụ chúng ta, rằng Đức Chúa Trời bởi khiến Đức Chúa Jêsus sống lại thì đã làm ứng-nghiệm lời hứa đó cho chúng ta là con cháu của tổ-phụ, y như đã chép trong sách Thi-thiên đoạn thứ hai rằng: Con là Con trai ta, ngày nay ta đã sanh Con. Ngài đã làm cho Đức Chúa Jêsus sống lại, đặng nay khỏi trở về sự hư-nát nữa, ấy về điều đó mà Ngài đã phán rằng: Ta sẽ thành-tín giữ cùng các ngươi lời hứa thánh đã phán với Đa-vít. Lại trong câu khác, cũng có phán rằng: Chúa chẳng cho Đấng Thánh Ngài thấy sự hư-nát đâu. Vả, vua Đa-vít lúc còn sống, làm theo ý-chỉ Đức Chúa Trời, đoạn qua đời; người đã được trở về cùng các tổ-phụ mình, và đã thấy sự hư-nát; nhưng Đấng mà Đức Chúa Trời đã khiến sống lại, chẳng có thấy sự hư-nát đâu. Vậy, hỡi anh em, khá biết rằng nhờ Đấng đó mà sự tha-tội được rao-truyền cho anh em; lại nhờ Ngài mà hễ ai tin thì được xưng công-bình về mọi điều theo luật-pháp Môi-se chẳng có thể được xưng công-bình. Nên, hãy giữ lấy cho khỏi mắc điều đã chép trong sách tiên-tri rằng: Hỡi kẻ hay khinh-dể kia, khá xem-xét, sợ-hãi và biến mất đi; Vì trong đời các ngươi, ta sẽ làm một việc, Nếu có ai thuật lại cho, các ngươi cũng chẳng tin. Khi hai người bước ra, chúng xin đến ngày Sa-bát sau cũng giảng-luận các lời đó. Lúc hội đã tan, có nhiều người Giu-đa và người mới theo đạo Giu-đa, đi theo Phao-lô và Ba-na-ba, hai người nói chuyện với họ và khuyên cứ vững lòng theo ơn Đức Chúa Trời. Ngày Sa-bát sau, gần hết cả thành đều nhóm lại để nghe đạo Chúa. Song những người Giu-đa thấy đoàn dân đó thì đầy lòng ghen-ghét, nghịch cùng lời Phao-lô nói và mắng-nhiếc người. Phao-lô và Ba-na-ba bèn nói cùng họ cách dạn-dĩ rằng: Ấy cần phải truyền đạo Đức Chúa Trời trước nhứt cho các ngươi; nhưng vì các ngươi đã từ-chối, và tự xét mình không xứng-đáng nhận sự sống đời đời, nên đây nầy, chúng ta mới xây qua người ngoại. Vì Chúa có phán dặn chúng ta như vầy: Ta lập ngươi lên đặng làm sự sáng cho các dân, Hầu cho ngươi đem sự cứu-rỗi cho đến cùng cõi đất. Những người ngoại nghe lời đó thì vui-mừng, ngợi-khen đạo Chúa, và phàm những kẻ đã được định sẵn cho sự sống đời đời, đều tin theo. Đạo Chúa tràn ra khắp trong xứ đó. Nhưng các người Giu-đa xui-giục những đàn-bà sang-trọng sốt-sắng và dân đàn anh trong thành; gây sự bắt-bớ Phao-lô và Ba-na-ba, mà đuổi ra khỏi phần đất mình. Hai người đối cùng họ phủi bụi nơi chân mình, rồi đi đến thành Y-cô-ni. Còn các môn-đồ thì được đầy-dẫy sự vui-vẻ và Đức Thánh-Linh vậy.

Công-vụ 13:1-52 Kinh Thánh Bản Dịch Mới (NVB)

Tại Hội Thánh An-ti-ốt có các tiên tri và giáo sư: Ba-na-ba, Si-môn biệt danh là Ni-giê, Lu-xi-út, người Ly-bi, Ma-na-ên, em nuôi của vua Hê-rốt và Sau-lơ. Họ đang thờ phượng Chúa và kiêng ăn, Đức Thánh Linh bảo: “Các con hãy dành riêng Ba-na-ba và Sau-lơ cho Ta để họ làm công tác Ta đã kêu gọi họ.” Sau khi kiêng ăn và cầu nguyện, họ đặt tay trên hai người và phái đi. Được Đức Thánh Linh sai đi, hai ông xuống Sê-lơ-xi, đáp tàu qua đảo Síp. Đến Sa-la-môn, họ công bố Đạo Đức Chúa Trời tại các hội đường Do Thái, có Giăng phụ tá. Đi qua suốt cả hải đảo đến Ba Phô, họ gặp một thầy phù thủy là tiên tri giả người Do Thái tên Ba-Giê-su, đang ở với tổng trấn Sê-giu Phao-lô, một người khôn ngoan. Tổng trấn cho mời Ba-na-ba và Sau-lơ để tìm hiểu Đạo Chúa. Nhưng tên phù thủy (cũng gọi là Ê-ly-ma) chống đối họ và cố gắng đánh lạc hướng để tổng trấn đừng tin Chúa. Nhưng Sau-lơ, cũng gọi là Phao-lô được đầy Thánh Linh, nhìn thẳng người phù thủy mà bảo: “Anh là người đầy gian dối, lừa gạt, là con của quỷ vương, kẻ thù địch của mọi sự công chính! Anh không chấm dứt việc xuyên tạc đường lối ngay thẳng của Chúa sao? Này, bây giờ tay Chúa đánh anh, nên anh sẽ bị mù, không thấy ánh sáng mặt trời một thời gian.” Lập tức mù lòa và bóng tối bao trùm Ê-ly-ma, anh ta phải đưa tay sờ soạng, nhờ người nắm tay dắt mình đi. Thấy thế, tổng trấn liền tin Chúa và vô cùng kinh ngạc về giáo huấn của Chúa. Từ Ba Phô, Phao-lô và các bạn đồng hành đáp thuyền đi Bẹt-ga, thuộc Bam-phi-li. Đến đây, Giăng bỏ họ quay về Giê-ru-sa-lem. Từ Bẹt-ga, họ đi đến tận An-ti-ốt, xứ Bi-si-đi. Nhằm ngày Sa-bát, họ vào ngồi trong hội đường của người Do Thái. Sau khi đọc Kinh Luật và Kinh Tiên Tri, các nhân viên quản trị hội đường cho mời họ và nói: “Thưa các anh em, nếu ai có lời khích lệ hội chúng thì xin cứ phát biểu!” Phao-lô đứng dậy, đưa tay ra hiệu và nói: “Thưa người Y-sơ-ra-ên và các người kính sợ Đức Chúa Trời, xin nghe tôi trình bày. Đức Chúa Trời của người Y-sơ-ra-ên đã chọn tổ phụ chúng ta và cho họ thịnh đạt trong thời gian ngụ tại đất Ai-cập. Ngài dùng tay quyền năng cao cả dìu dắt họ ra khỏi nước này. Ngài chịu đựng họ trong đồng hoang suốt bốn mươi năm. Ngài tiêu diệt bảy dân tộc trong đất Ca-na-an và cho họ thừa hưởng đất nước ấy. Thời kỳ này độ bốn trăm năm mươi năm. Sau đó, Ngài ban cho họ các thẩm phán cho đến đời tiên tri Sa-mu-ên. Lúc ấy họ đòi xin một vị vua. Đức Chúa Trời cho Sau-lơ, con trai của Kích, thuộc chi tộc Bên-gia-min, lên ngôi vua và trị vì bốn mươi năm. Rồi Ngài loại Sau-lơ và đặt Đa-vít lên ngôi, là người được Ngài chứng nhận: ‘Ta đã tìm thấy Đa-vít, con Gie-sê, người mà Ta hài lòng, Người sẽ thực hiện tất cả ý định của Ta.’ Do dòng dõi của Đa-vít, Đức Chúa Trời ban cho Y-sơ-ra-ên Đấng Cứu Thế là Đức Giê-su theo lời hứa của Ngài. Trước khi Đức Giê-su xuất hiện, Giăng đã tuyên bố cho toàn dân Y-sơ-ra-ên phép báp-tem ăn năn tội. Khi gần hoàn thành nhiệm vụ, Giăng tuyên bố: ‘Các người nghĩ tôi là ai? Tôi không phải là Đấng đó, nhưng kìa, Ngài đến sau tôi, tôi không xứng đáng cởi dép cho Ngài.’ Thưa các anh em là dòng dõi Áp-ra-ham và những người kính sợ Đức Chúa Trời, Đạo cứu rỗi này đã được ban bố cho chúng ta. Vì dân cư Giê-ru-sa-lem và các nhà lãnh đạo của họ không nhận biết Đức Giê-su nhưng khi lên án Ngài, họ lại làm ứng nghiệm lời các tiên tri của Chúa vẫn được đọc mỗi ngày Sa-bát. Dù không tìm thấy lý do nào để kết án tử hình, họ vẫn yêu cầu Phi-lát xử tử Ngài. Khi họ đã làm trọn tất cả những lời đã chép về Ngài, họ hạ xác Ngài xuống khỏi thập tự giá và an táng trong một ngôi mộ. Nhưng Đức Chúa Trời đã khiến Ngài sống lại từ kẻ chết, và những người đã theo Ngài từ miền Ga-li-lê lên Giê-ru-sa-lem được thấy Ngài trong nhiều ngày. Hiện nay, họ đều làm chứng về Ngài trước dân chúng. Chúng tôi báo tin mừng cho quý vị: Điều Đức Chúa Trời đã hứa với tổ phụ chúng ta, Ngài đã thực hiện cho chúng ta là dòng dõi họ, bằng cách khiến Đức Giê-su sống lại như Thánh Thi thứ nhì đã chép: ‘Ngươi là con Ta, Ngày nay Ta đã sinh ngươi.’ Sự kiện Đức Chúa Trời khiến Ngài sống lại từ kẻ chết, không bị rữa nát bao giờ, đã được phán: ‘Ta sẽ cho các con phước hạnh thánh và chắc chắn mà Ta đã hứa với Đa-vít.’ Do đó, trong một chương khác, Kinh Thánh lại nói: ‘Chúa sẽ không cho Đấng Thánh của Ngài bị rữa nát.’ Nhưng sau khi phục vụ Đức Chúa Trời theo ý Ngài trong thời đại mình, vua Đa-vít đã chết, được chôn cất bên cạnh tổ tiên, và phải bị rữa nát. Còn Đấng được Đức Chúa Trời làm cho sống lại thì không bao giờ bị rữa nát. Vậy, thưa anh em, xin nhận thức rằng chính nhờ Đức Giê-su mà ơn tha tội được công bố cho các anh em. Tất cả những ai tin Ngài đều được tuyên xưng công chính về mọi điều mà Kinh Luật Môi-se không thể nào tuyên xưng công chính được. Vậy hãy coi chừng để khỏi bị mắc phải điều các tiên tri Chúa đã cảnh cáo: ‘Hỡi những kẻ khinh miệt, xem đây! Hãy kinh ngạc và chết đi! Vì trong thời các ngươi, Ta sẽ làm một việc, Dù nghe ai nói Các ngươi cũng không tin!’ ” Khi ra về, dân chúng yêu cầu hai ông ngày Sa-bát sau, cũng giảng luận thêm cho họ nghe các điều ấy nữa. Cuộc họp đã tan, nhiều người Do Thái và người ngoại quốc theo Do Thái giáo đi theo Phao-lô và Ba-na-ba. Hai ông chuyện trò với họ và khích lệ họ cứ tiếp tục sống theo ân sủng của Đức Chúa Trời. Ngày Sa-bát sau, hầu hết dân trong thành đều họp lại để nghe Đạo Chúa. Thấy đoàn dân đông đảo, những người Do Thái đầy lòng ganh tị, chống đối những điều Phao-lô giảng dạy và nhục mạ ông. Nhưng Phao-lô và Ba-na-ba mạnh dạn tuyên bố: “Cần phải truyền Đạo Đức Chúa Trời cho các người trước nhất, vì các người chối bỏ Đạo Chúa và tự xét mình không xứng đáng được sự sống vĩnh phúc nên bây giờ chúng tôi quay sang các dân tộc ngoại quốc. Vì Chúa đã truyền bảo tôi: ‘Ta đã lập con lên làm ánh sáng cho các dân tộc, Để con đem sự cứu rỗi đến tận cùng quả đất.’ ” Nghe lời này, người ngoại quốc hân hoan và tôn vinh Đạo Chúa; những người đã được định để hưởng sự sống vĩnh phúc đều tin nhận Chúa. Đạo Chúa được truyền bá khắp cả miền ấy. Nhưng người Do Thái sách động một số phụ nữ quý phái theo Do Thái giáo và các cấp lãnh đạo của thành phố, xúi giục họ bắt bớ Phao-lô và Ba-na-ba, và trục xuất hai ông ra khỏi lãnh thổ. Để phản ứng lại, hai ông phủi bụi dính chân mình và qua thành Y-cô-ni. Còn các môn đệ Chúa được đầy dẫy Thánh Linh và vui mừng.

Công-vụ 13:1-52 Kinh Thánh Hiện Đại (KTHD)

Hội Thánh An-ti-ốt có năm nhà tiên tri và giáo sư: Ba-na-ba, Si-mê-ôn (còn được gọi là người “người đen”), Lu-si-út quê ở Ly-bi, Ma-na-ên, em kết nghĩa của vua chư hầu Hê-rốt, và Sau-lơ. Hội Thánh đang thờ phượng Chúa và kiêng ăn, Chúa Thánh Linh bảo: “Hãy dành riêng Ba-na-ba và Sau-lơ cho Ta, để làm công việc Ta chỉ định.” Sau khi kiêng ăn cầu nguyện, Hội Thánh đặt tay và tiễn hai ông lên đường. Được Chúa Thánh Linh ủy nhiệm, Ba-na-ba và Sau-lơ liền xuống Sê-lơ-xi đi thuyền đến đảo Síp. Cập bến Sa-la-min, họ lần lượt công bố Đạo của Đức Chúa Trời trong các hội đường Do Thái khắp đảo Síp. Giăng Mác cũng đi theo phụ tá. Sau khi đi khắp đảo, cuối cùng họ đến Pa-phô, ở đó có một phù thủy người Do Thái, là tiên tri giả tên Ba-giê-xu, biệt danh Ê-li-ma. Ba-giê-xu quen thân thống đốc Sê-giu Phao-lút. Thống đốc là người khôn ngoan, sai mời Ba-na-ba và Sau-lơ đến giảng Đạo Chúa. Nhưng phù thủy Ê-li-ma chống đối hai ông, tìm cách khuyên thống đốc đừng tin Chúa. Bấy giờ Sau-lơ cũng gọi là Phao-lô, được đầy dẫy Chúa Thánh Linh, quắc mắt nhìn tên phù thủy: “Anh là người đầy gian trá xảo quyệt, là ác quỷ, kẻ thù công lý! Anh không ngưng phá hoại công việc Chúa sao? Này, Chúa ra tay phạt anh bị mù, không nhìn thấy mặt trời một thời gian.” Lập tức bóng tối dày đặc bao phủ Ê-li-ma. Anh ta phải quờ quạng tìm người dẫn dắt. Thấy việc phi thường, thống đốc liền tin Chúa và ngạc nhiên về Đạo Chúa. Phao-lô và các bạn từ Pa-phô xuống tàu đi Bẹt-ga, xứ Bam-phi-ly, còn Giăng Mác rời họ trở về Giê-ru-sa-lem. Từ Bẹt-ga, họ đến An-ti-ốt xứ Bi-si-đi. Vào ngày Sa-bát, họ vào thăm hội đường Do Thái. Sau khi đọc sách luật Môi-se và các sách tiên tri, các quản lý hội đường sai người mời Phao-lô và Ba-na-ba: “Thưa các anh em, nếu các anh có lời khích lệ dân chúng, xin cứ nói!” Phao-lô đứng dậy đưa tay chào và nói: “Thưa toàn dân Ít-ra-ên và anh chị em Dân Ngoại, là những người có lòng kính sợ Đức Chúa Trời, xin lắng nghe tôi. Đức Chúa Trời của dân tộc Ít-ra-ên đã chọn tổ tiên chúng ta, cho họ thịnh vượng tại xứ Ai Cập, dùng quyền năng phi thường dìu dắt họ ra khỏi xứ đó. Suốt bốn mươi năm, Ngài nhẫn nại chịu đựng họ giữa hoang mạc. Sau khi tiêu diệt bảy dân tộc xứ Ca-na-an, Ngài chia đất cho họ làm sản nghiệp. Tất cả điều đó diễn ra trong 450 năm. Sau đó, Đức Chúa Trời lập các phán quan lãnh đạo họ đến đời Tiên tri Sa-mu-ên. Theo lời thỉnh cầu của dân chúng, Đức Chúa Trời lập Sau-lơ, con trai Kích, thuộc đại tộc Bên-gia-min làm vua trong bốn mươi năm. Nhưng Đức Chúa Trời truất phế Sau-lơ và đặt Đa-vít lên ngôi, người được Đức Chúa Trời chứng nhận: ‘Ta đã tìm thấy Đa-vít, con trai Gie-sê, là người làm Ta hài lòng; Đa-vít sẽ thực hiện chương trình Ta.’ Đúng theo lời hứa, Đức Chúa Trời lập Chúa Giê-xu, hậu tự Vua Đa-vít làm Đấng Cứu Rỗi của Ít-ra-ên! Trước khi Chúa đến, Giăng Báp-tít đã dạy dân Ít-ra-ên phải ăn năn tội lỗi và chịu báp-tem. Khi hoàn thành nhiệm vụ, Giăng tuyên bố: ‘Anh em tưởng tôi là Đấng Mết-si-a sao? Không, tôi không phải là Đấng ấy! Nhưng Chúa sẽ sớm đến—tôi không đáng hầu hạ và mở quai dép cho Ngài.’ Thưa anh chị em—con cháu Áp-ra-ham và anh chị em Dân Ngoại, là những người có lòng kính sợ Đức Chúa Trời—sứ điệp cứu rỗi đã đến với chúng ta! Vì dân thành Giê-ru-sa-lem và các cấp lãnh đạo không nhận biết Chúa Giê-xu, là Đấng đã được các vị tiên tri nói đến. Thay vào đó, họ kết án Ngài, và việc này làm ứng nghiệm các lời tiên tri thường được đọc trong ngày Sa-bát. Dù không tìm được lý do khép Ngài vào tội tử hình, nhưng họ vẫn cứ xin Phi-lát giết Ngài. Sau khi làm ứng nghiệm mọi lời đã chép về Chúa, họ gỡ thi thể Ngài khỏi cây thập tự và đặt trong ngôi mộ. Nhưng Đức Chúa Trời đã khiến Ngài sống lại! Trong nhiều ngày liên tiếp Chúa hiện ra gặp những người từng theo Ngài từ xứ Ga-li-lê đến Giê-ru-sa-lem. Hiện nay họ còn làm chứng về Ngài cho người Ít-ra-ên. Chúng tôi xin công bố Phúc Âm cho quý vị. Điều Đức Chúa Trời hứa với tổ tiên chúng ta ngày trước, Ngài đã thực hiện trong thời đại chúng ta, Ngài đã khiến Chúa Giê-xu sống lại. Như Thi Thiên thứ hai đã viết về Chúa Giê-xu: ‘Ngươi là Con Ta. Ngày nay Ta là Cha Ngươi.’ Vì Đức Chúa Trời hứa cho Ngài sống lại, không bao giờ để Ngài bị mục nát trong mộ phần. Đức Chúa Trời phán: ‘Ta sẽ cho Con đặc ân mà Ta đã hứa với Đa-vít.’ Và ‘Chúa không để Đấng Thánh Ngài bị mục nát.’ Lời hứa ấy không phải nói về Đa-vít, vì sau khi phục vụ Đức Chúa Trời suốt đời, Đa-vít đã chết, được an táng bên cạnh tổ phụ, và thi hài cũng rữa nát như mọi người. Không, lời ấy nói về một Đấng khác—Đấng được Đức Chúa Trời khiến sống lại và thân thể Ngài không hề mục nát. Vậy thưa anh chị em, chúng tôi ở đây để công bố rằng nhờ Chúa Giê-xu, chúng ta được ơn tha tội của Đức Chúa Trời: Ai tin Chúa Cứu Thế đều được Đức Chúa Trời thừa nhận là người công chính. Đó là điều mà luật pháp Môi-se không bao giờ làm được. Xin quý vị thận trọng vì có lời tiên tri cảnh cáo: ‘Này, những người nhạo báng, hãy kinh ngạc, rồi bị diệt vong! Vì trong đời các ngươi Ta sẽ làm một việc, một việc các ngươi không thể tin dù có người thuật lại các ngươi cũng chẳng tin.’” Khi Phao-lô và Ba-na-ba bước ra khỏi hội đường, dân chúng nài nỉ hai ông trở lại giảng thêm Đạo Chúa vào tuần sau. Giải tán xong, nhiều người Do Thái và người bản xứ theo đạo Do Thái đi theo Phao-lô và Ba-na-ba. Hai ông nói chuyện với họ và khích lệ họ tiếp tục sống trong ơn Chúa. Tuần sau đó, hầu hết dân trong thành tập họp để nghe Đạo Chúa. Thấy quần chúng đông đảo, các nhà lãnh đạo Do Thái sinh lòng ganh tị, phản đối những lời Phao-lô giảng dạy và nhục mạ ông. Phao-lô và Ba-na-ba dõng dạc tuyên bố: “Đạo Chúa được truyền giảng cho anh chị em trước, nhưng anh chị em khước từ và xét mình không đáng được sống vĩnh cửu, nên chúng tôi quay sang Dân Ngoại. Vì Chúa đã truyền dạy chúng tôi: ‘Ta dùng con làm ánh sáng cho các Dân Ngoại, để truyền Đạo cứu rỗi khắp thế giới.’” Khi Dân Ngoại nghe xong đều vui mừng ca tụng Phúc Âm. Những người được định cho sự sống vĩnh cửu đều tin Chúa. Đạo Chúa được truyền bá khắp miền đó. Nhưng các nhà lãnh đạo Do Thái xúi giục các phụ nữ quý phái sùng đạo Do Thái và các nhà chức trách thành phố tụ tập đám đông chống nghịch Phao-lô và Ba-na-ba, đuổi hai ông khỏi lãnh thổ. Hai ông giũ áo ra đi, đến thành Y-cô-ni. Còn các tín hữu được đầy dẫy Chúa Thánh Linh và tràn ngập vui mừng.

Công-vụ 13:1-52 Thánh Kinh: Bản Phổ thông (BPT)

Tại hội thánh An-ti-ốt có các nhà tiên tri và giáo sư sau đây: Ba-na-ba, Xi-mê-ôn cũng gọi là Ni-gie, Lu-xi-u quê ở Xi-ren, Ma-na-en là người cùng lớn lên với vua Hê-rốt và Sau-lơ. Mọi người đều thờ kính Chúa và cữ ăn một thời gian. Lúc ấy Thánh Linh bảo họ, “Hãy để riêng Ba-na-ba và Sau-lơ cho công tác đặc biệt mà ta đã giao cho họ làm.” Vì thế sau khi cữ ăn và cầu nguyện thì họ đặt tay trên Ba-na-ba và Phao-lô rồi cử hai người đi. Ba-na-ba và Sau-lơ được Thánh Linh sai đi, đến thành Xê-lêu-xia. Từ đó họ đáp thuyền qua đảo Chíp. Đến Xa-la-mi họ rao giảng Tin Mừng của Thượng Đế trong các hội đường Do-thái. Giăng Mác cùng đi để giúp đỡ họ. Họ đi qua suốt đảo Ba-phô và gặp một thuật sĩ Do-thái tên Ba-Giê-xu. Hắn là một tiên tri giả lúc nào cũng ở cạnh Xẹt-gu Phao-lúc, quan tổng đốc và là người rất khôn ngoan. Ông mời Ba-na-ba và Sau-lơ đến vì ông muốn nghe lời Chúa. Nhưng Ê-ly-ma, tay thuật sĩ, nhất định chống đối. (Ê-ly-ma là tên Ba-Giê-xu trong tiếng Hi-lạp.) Hắn tìm cách ngăn cản không cho quan tổng đốc tin theo Chúa Giê-xu. Nhưng Sau-lơ, cũng gọi là Phao-lô, đầy dẫy Thánh Linh, nhìn thẳng vào Ê-ly-ma và quở, “Nầy con của ma quỉ! Anh chống nghịch điều lành! Anh đầy dẫy mưu mô xảo trá, lúc nào cũng tìm cách biến sự thật của Chúa thành những điều dối gạt. Giờ đây Chúa sẽ đụng đến anh, anh sẽ bị mù, không thấy gì cả trong một thời gian—đến nỗi không thấy được ánh sáng mặt trời nữa.” Bỗng nhiên, Ê-ly-ma thấy mọi vật tối sầm lại, hắn mò mẫm chung quanh tìm người dắt tay mình. Quan tổng đốc thấy thế liền tin nhận Chúa vì ông sững sờ về sự dạy dỗ của Ngài. Phao-lô và những bạn đồng hành đáp thuyền từ Ba-phô đến Bẹt-ga, thuộc miền Băm-phi-ly. Đến đó Giăng Mác bỏ họ và trở về lại Giê-ru-sa-lem. Họ tiếp tục cuộc hành trình từ Bẹt-ga đến An-ti-ốt, một thành phố miền Bi-xi-đi. Vào ngày Sa-bát họ vào hội đường ngồi. Sau khi người ta đọc xong Luật Mô-se và các lời tiên tri thì các vị lãnh đạo hội đường hỏi Phao-lô và Ba-na-ba, “Nếu các ông có điều gì để khích lệ mọi người thì xin cứ nói đi.” Phao-lô đứng dậy, giơ tay lên nói, “Thưa các anh chị em Ít-ra-en và những người thờ kính Thượng Đế, xin nghe đây! Thượng Đế của Ít-ra-en đã chọn các tổ tiên chúng ta. Ngài khiến cho dân ta thành một dân lớn trong thời gian họ cư ngụ ở Ai-cập. Ngài đem họ ra khỏi nước ấy bằng quyền năng lớn lao của Ngài. Ngài chịu đựng họ suốt bốn mươi năm trong sa mạc. Thượng Đế tiêu diệt bảy dân tộc trong đất Ca-na-an rồi trao lãnh thổ ấy cho dân tộc của Ngài. Các việc ấy diễn ra trong vòng bốn trăm năm mươi năm. Sau đó, Thượng Đế cho họ các quan án cho đến đời nhà tiên tri Sa-mu-ên. Lúc dân chúng xin một vua, thì Ngài cho họ Sau-lơ, con của Kích. Sau-lơ thuộc chi tộc Bên-gia-min. Ông làm vua trong bốn mươi năm. Sau khi phế bỏ ông, Thượng Đế chọn Đa-vít làm vua họ. Ngài nói về Đa-vít như sau, ‘Ta đã tìm được trong Đa-vít, con của Gie-xê, một mẫu người mà ta muốn. Người sẽ làm theo ý ta.’ Thượng Đế đã đưa Chúa Giê-xu, một người thuộc dòng dõi Đa-vít, đến cho dân Ít-ra-en để làm Cứu Chúa của họ đúng như Ngài đã hứa. Trước khi Chúa Giê-xu đến, Giăng giảng lễ báp-têm về sự ăn năn cho toàn dân Ít-ra-en. Sau khi làm xong công tác, Giăng nói, ‘Các ông bà nghĩ tôi là ai? Tôi không phải là Chúa Cứu Thế. Ngài sẽ đến sau, còn tôi không xứng đáng cởi dép cho Ngài.’ Thưa các anh chị em là con cháu của gia đình Áp-ra-ham và những người không phải Do-thái đang thờ phụng Thượng Đế, xin nghe đây! Tin Mừng về sự cứu rỗi nầy đã đến với chúng ta. Dân chúng Giê-ru-sa-lem và các nhà lãnh đạo không nhận biết Chúa Giê-xu là Cứu Chúa. Họ không hiểu lời các nhà tiên tri mà họ nghe đọc mỗi ngày Sa-bát. Nhưng khi họ kết tội Chúa Giê-xu, thì vô tình họ đã thực hiện các lời tiên tri. Mặc dù họ không tìm được lý do chính đáng nào để xử tử Chúa Giê-xu nhưng vẫn đòi Phi-lát giết Ngài. Khi đã thực hiện xong tất cả những gì Thánh Kinh viết thì họ đem xác Ngài xuống khỏi cây thập tự và chôn trong mộ. Nhưng Thượng Đế đã khiến Ngài sống lại từ trong kẻ chết! Sau đó, những người đã từng theo Chúa Giê-xu từ Ga-li-lê đến Giê-ru-sa-lem nhìn thấy Chúa trong nhiều ngày. Hiện nay họ là những nhân chứng trước mặt dân chúng. Chúng tôi thuật cho anh chị em Tin Mừng về lời mà Thượng Đế hứa cùng các tổ tiên chúng ta. Thượng Đế đã làm thành lời hứa ấy cho chúng ta là con cái Ngài bằng cách khiến Chúa Giê-xu sống lại từ kẻ chết. Chúng ta đọc trong sách Thi thiên chương 2 như sau: ‘Ngươi là Con ta. Ngày nay ta sinh ngươi.’ Thượng Đế đã khiến Chúa Giê-xu sống lại từ kẻ chết, Ngài sẽ không trở lại mồ mả để thành tro bụi nữa. Ngài phán: ‘Ta sẽ cho ngươi những ân phúc thánh và vững chắc mà ta đã hứa cùng Đa-vít.’ Còn trong một chỗ khác, Thượng Đế phán: ‘Ngài không để Đấng Thánh của Ngài bị mục nát.’ Trọn đời sống Đa-vít làm theo ý Chúa. Khi chết ông được chôn bên cạnh các tổ tiên, thân xác ông bị mục nát trong mồ mả. Nhưng Đấng mà Thượng Đế khiến sống lại từ kẻ chết không bị mục nát trong mồ mả. Thưa anh chị em, anh chị em phải hiểu điều chúng tôi nói: Anh chị em có thể được tha tội qua Chúa Giê-xu. Luật pháp Mô-se không thể giải thoát anh chị em khỏi tội. Nhưng hễ ai tin thì đều được giải thoát khỏi tội lỗi qua Chúa Giê-xu. Phải cẩn thận! Đừng để những gì các nhà tiên tri đã cảnh cáo xảy đến cho mình: ‘Hỡi dân hay nghi ngờ, hãy nghe đây! Ngươi có thể sững sờ, rồi qua đời. Trong đời ngươi, ta sẽ làm một việc mà ngươi sẽ không chịu tin dù cho có người thuật lại cho ngươi!’” Lúc Phao-lô và Ba-na-ba rời hội đường thì dân chúng yêu cầu hai ông đến ngày Sa-bát sau giảng thêm cho họ nghe nữa. Nhóm họp xong, nhiều người Do-thái và những người mới theo đạo Do-thái và thờ kính Thượng Đế, từ hội đường đi theo Phao-lô và Ba-na-ba. Hai người khuyên họ cứ vững tin nơi ân phúc của Thượng Đế. Ngày Sa-bát sau, hầu hết dân chúng trong thành phố đều đến nghe lời Chúa. Thấy dân chúng đến đông, những người Do-thái đâm ra đố kỵ, thốt lên những lời nhục mạ và cãi vã lại những điều Phao-lô nói. Nhưng Phao-lô và Ba-na-ba nói rất mạnh dạn rằng, “Chúng tôi đã rao truyền lời của Thượng Đế cho các ông trước. Nhưng vì các ông không chịu nghe, tự cho mình không đáng nhận sự sống đời đời, cho nên chúng tôi mới quay sang các dân tộc khác. Đó chính là điều Chúa dặn chúng tôi, ‘Ta đã đặt ngươi làm ánh sáng cho các dân; ngươi sẽ chỉ cho mọi dân trên thế giới con đường cứu rỗi.’” Những người không phải Do-thái nghe Phao-lô nói thế rất vui mừng và càng ham chuộng lời của Chúa. Những ai đã được lựa chọn để nhận sự sống đời đời đều tin lời ấy. Lời Chúa được lan truyền ra khắp xứ. Nhưng người Do-thái xúi giục một số các phụ nữ mộ đạo có uy tín và các giới lãnh đạo trong thành phố. Họ gây rối chống lại Phao-lô, Ba-na-ba và trục xuất hai người ra khỏi vùng ấy. Vì thế Phao-lô và Ba-na-ba phủi bụi khỏi chân mình rồi đi sang Y-cô-ni. Còn các tín hữu hết sức vui mừng và đầy Thánh Linh.

Công-vụ 13:1-52 Kinh Thánh Tiếng Việt, Bản Dịch 2011 (BD2011)

Lúc ấy hội thánh tại An-ti-ốt có các tiên tri và các giáo sư: Ba-na-ba, Si-mê-ôn cũng được gọi là Người Da Đen, Lu-si-út người Sy-ren, Ma-na-ên bạn lúc thiếu thời của Vua Chư Hầu Hê-rốt, và Sau-lơ. Đang khi họ thờ phượng Chúa và kiêng ăn, Đức Thánh Linh phán, “Hãy biệt riêng cho Ta Ba-na-ba và Sau-lơ để họ làm công việc Ta kêu gọi họ.” Sau khi đã kiêng ăn và cầu nguyện, họ đặt tay trên hai người, rồi tiễn hai người ra đi. Vậy, do được Đức Thánh Linh sai phái, Ba-na-ba và Sau-lơ đi xuống Sê-lơ-xi-a, từ đó họ xuống tàu đến Đảo Chíp-rơ. Khi đến Sa-la-min họ giảng Đạo Đức Chúa Trời trong các hội đường của người Do-thái; họ cũng có Giăng đi theo làm phụ tá cho họ. Họ đi giảng khắp đảo và đến tận Pa-phô; tại đó họ gặp một thầy pháp kia tên là Ba-giê-xu, một tiên tri giả người Do-thái; ông ấy đang ở với Quan Trấn Thủ Sẹc-giu Pau-lu, một người thông minh. Quan ấy đã cho mời Ba-na-ba và Sau-lơ đến để giảng cho ông nghe Đạo Đức Chúa Trời. Nhưng thầy pháp Ê-ly-ma (đây là tên của ông trong tiếng Hy-lạp) ra sức chống đối họ và cố tình ngăn trở quan trấn thủ tin Chúa. Bấy giờ Sau-lơ, cũng có tên là Phao-lô, được đầy dẫy Đức Thánh Linh, nhìn thẳng vào mặt ông ta và nói, “Ông là người đầy mọi thứ gian xảo và mọi thứ dối trá; ông là con của Ác Quỷ và kẻ thù của mọi điều công chính. Ông có chấm dứt ngay việc làm cong các đường thẳng của Chúa không? Này, tay Chúa chống lại ông. Ông sẽ bị mù và không thấy mặt trời một thời gian.” Ngay lập tức sự mù mịt và tối tăm giáng trên ông ấy, ông ấy quờ quạng và tìm người nắm tay để dắt đi. Khi quan trấn thủ thấy sự việc đã xảy ra như thế, ông tin và lấy làm lạ về sự giảng dạy của Đạo Chúa. Phao-lô và các bạn đồng hành xuống tàu rời Pa-phô đến Pẹc-ga trong xứ Pam-phy-li-a; tại đó Giăng từ biệt hai ông để trở về Giê-ru-sa-lem. Nhưng hai ông rời Pẹc-ga và tiếp tục đến An-ti-ốt trong vùng Pi-si-đi-a. Đến ngày Sa-bát họ vào hội đường và ngồi xuống. Sau khi tuyên đọc Luật Pháp và Các Tiên Tri, những người quản lý hội đường sai người đến nói với họ, “Thưa anh em, nếu anh em có điều gì muốn nói để khích lệ mọi người, xin phát biểu.” Bấy giờ Phao-lô đứng dậy, lấy tay ra dấu cho mọi người chú ý, rồi nói, “Thưa đồng bào I-sơ-ra-ên và thưa quý vị, những người kính sợ Đức Chúa Trời, xin nghe tôi trình bày: Đức Chúa Trời của dân I-sơ-ra-ên này đã chọn các tổ phụ chúng ta và làm dân tộc chúng ta lớn mạnh trong khi họ còn trú ngụ trong xứ Ai-cập, và với cánh tay quyền năng Ngài dẫn đưa họ ra khỏi xứ đó. Trong khoảng bốn mươi năm, Ngài chịu đựng họ trong đồng hoang. Sau khi Ngài tiêu diệt bảy dân trong xứ Ca-na-an, Ngài ban xứ ấy cho họ làm sản nghiệp khoảng bốn trăm năm mươi năm. Kế đó Ngài ban cho họ các thủ lãnh cho đến thời Tiên Tri Sa-mu-ên. Bấy giờ họ đòi hỏi một vua, và Đức Chúa Trời đã ban cho họ Sau-lơ con của Kích, một người thuộc chi tộc Bên-gia-min; vua ấy trị vì bốn mươi năm. Sau đó Ngài bỏ vua ấy và lập Đa-vít làm vua của họ. Đa-vít là người Ngài đã làm chứng rằng, ‘Ta đã tìm được Đa-vít con trai Giê-se, một người đẹp lòng Ta, một người sẽ thực hiện mọi ý muốn Ta.’ Từ dòng dõi người ấy, Đức Chúa Trời đã ban cho dân I-sơ-ra-ên một Đấng Giải Cứu, đó là Đức Chúa Jesus, như lời Ngài đã hứa. Trước khi Đấng ấy xuất hiện, Giăng đã giảng về sự ăn năn bày tỏ qua phép báp-têm cho toàn dân I-sơ-ra-ên. Khi Giăng sắp hoàn tất chức vụ mình, ông nói, ‘Các người nghĩ tôi là ai? Tôi không phải là Đấng ấy. Nhưng này, có một Đấng đến sau tôi; tôi không xứng đáng mở dây giày cho Ngài.’ Thưa anh chị em là dòng dõi trong gia đình của Áp-ra-ham và thưa quý vị là những người kính sợ Đức Chúa Trời, Đạo cứu rỗi này đã truyền cho chúng ta đó. Vì đồng bào chúng ta ở Giê-ru-sa-lem và những người lãnh đạo của họ không nhận ra Ngài và không hiểu những lời các vị tiên tri đã nói mà chúng ta thường nghe đọc trong mỗi ngày Sa-bát, nên khi lên án Ngài họ đã làm ứng nghiệm mọi lời đã chép về Ngài. Mặc dù họ không tìm thấy Ngài có tội gì đáng chết, họ vẫn đòi Phi-lát xử tử Ngài. Khi họ đã làm ứng nghiệm mọi điều đã viết về Ngài, họ đem Ngài xuống khỏi cây gỗ và đặt Ngài trong một ngôi mộ. Nhưng Đức Chúa Trời đã làm cho Ngài sống lại từ cõi chết. Rồi trong nhiều ngày Ngài đã hiện ra cho những người đi theo Ngài từ Ga-li-lê lên Giê-ru-sa-lem xem thấy, và hiện nay những người ấy đang làm chứng về Ngài cho nhiều người. Hôm nay chúng tôi công bố cho anh chị em Tin Mừng mà Đức Chúa Trời đã hứa với các tổ phụ chúng ta. Đức Chúa Trời đã làm ứng nghiệm lời hứa của Ngài cho con cháu họ, tức cho chúng ta, bằng cách làm cho Đức Chúa Jesus sống lại. Điều đó cũng đã được chép trong Thánh Thi thứ hai rằng, ‘Con là con Ta, Ngày nay Ta đã sinh Con.’ Còn về việc Đức Chúa Trời đã làm cho Ngài sống lại từ cõi chết để không bao giờ trở về sự hư nát nữa, Ngài đã phán như thế này, ‘Ta sẽ ban cho các ngươi những lời hứa thánh và quả quyết với Đa-vít.’ Trong một Thánh Thi khác Ngài cũng đã nói, ‘Chúa sẽ không để cho Người Thánh của Ngài thấy sự hư nát.’ Vì Vua Đa-vít, sau khi phục vụ thánh ý Đức Chúa Trời trong thế hệ mình, đã an giấc, đã được về với các tổ tiên của vua, và đã kinh nghiệm sự hư nát, nhưng Đấng mà Đức Chúa Trời đã làm cho sống lại thì không hề kinh nghiệm sự hư nát. Vậy thưa anh chị em, anh chị em hãy biết rằng nhờ Đấng ấy mà ơn tha tội đã được rao truyền cho anh chị em, và nhờ Ngài, ai tin nhận sẽ được xưng công chính đối với mọi điều mà nếu cứ giữ theo Luật Pháp của Môi-se thì không ai có thể được xưng công chính. Vậy anh chị em hãy để ý những gì đã nói trong sách Các Tiên Tri, để những điều ấy không xảy đến với anh chị em, ‘Xem kìa, hỡi những kẻ hay khinh chê nhạo báng! Hãy kinh ngạc và chết mất đi, Vì trong thời các ngươi, Ta sẽ làm một việc, Một việc khó tin cho các ngươi, cho dù có người đến nói với các ngươi.’” Khi Phao-lô và Ba-na-ba đi ra, họ nài xin hai ông hãy giảng những lời ấy vào ngày Sa-bát kế tiếp. Sau khi buổi nhóm ở hội đường giải tán, nhiều người Do-thái và những người trong các dân ngoại theo Do-thái Giáo cách sùng tín đi theo Phao-lô và Ba-na-ba; hai ông giảng dạy thêm cho họ và khuyên họ cứ trung tín trong ân sủng của Đức Chúa Trời. Ngày Sa-bát kế tiếp, hầu như cả thành nhóm lại để nghe Đạo Chúa. Nhưng khi người Do-thái thấy đám đông, họ đầy lòng ganh tị, nên bôi bác những điều Phao-lô rao giảng và mạ lỵ ông. Vì thế Phao-lô và Ba-na-ba bạo dạn nói thẳng với họ, “Chúng tôi thấy cần phải rao truyền Đạo Đức Chúa Trời cho anh chị em trước nhất; nhưng vì anh chị em khước từ và xét mình không xứng đáng để hưởng sự sống đời đời, nên này, chúng tôi quay qua các dân ngoại, vì Chúa cũng đã truyền cho chúng tôi rằng, ‘Ta đã đặt ngươi làm ánh sáng cho các dân ngoại, Để ngươi đem ơn cứu rỗi đến tận cùng trái đất.’” Khi những người trong các dân ngoại nghe như vậy, họ vui mừng và tôn vinh Đạo Chúa. Hễ ai đã được định để hưởng sự sống đời đời đều tin theo. Vậy Đạo Chúa được tràn ra khắp xứ đó. Tuy nhiên người Do-thái ở đó đã sách động quý bà trong giới thượng lưu theo Do-thái Giáo và những người lãnh đạo trong thành. Họ xúi giục những người ấy bắt bớ Phao-lô và Ba-na-ba và đuổi hai ông ra khỏi địa phận của họ. Vì thế hai ông phủi bụi dính chân mình để phản đối họ, rồi lên đường đến I-cô-ni-um. Còn các môn đồ thì đầy dẫy niềm vui và Đức Thánh Linh.

Công-vụ 13:1-52 Kinh Thánh Tiếng Việt Bản Hiệu Đính 2010 (VIE2010)

Trong Hội Thánh tại An-ti-ốt có các nhà tiên tri và giáo sư: Ba-na-ba, Si-mê-ôn gọi là Ni-giê, Lu-si-út người Sy-ren, Ma-na-hem là em nuôi vua Hê-rốt, và Sau-lơ. Đang khi họ thờ phượng Chúa và kiêng ăn thì Đức Thánh Linh phán: “Hãy biệt riêng Ba-na-ba và Sau-lơ cho công tác Ta đã kêu gọi họ.” Sau khi kiêng ăn và cầu nguyện, họ đặt tay trên hai người và sai đi. Được Đức Thánh Linh sai phái, hai ông xuống Sê-lơ-xi, rồi từ đó đáp tàu đến đảo Síp. Đến Sa-la-min, họ công bố lời Đức Chúa Trời trong các nhà hội của người Do Thái; cũng có Giăng phụ giúp. Khi đi khắp đảo cho đến Pa-phô, tại đây họ gặp một thuật sĩ là kẻ tiên tri giả người Do Thái tên Ba-giê-xu; người nầy đang ở với tổng đốc Sê-giút Phao-lút, là một người khôn ngoan. Tổng đốc sai mời Ba-na-ba và Sau-lơ đến, vì ông muốn nghe đạo Đức Chúa Trời. Nhưng thuật sĩ ấy, tên Hi Lạp là Ê-ly-ma, chống đối hai ông, tìm mọi cách ngăn cản tổng đốc tin Chúa. Bấy giờ, Sau-lơ cũng gọi là Phao-lô, được đầy dẫy Đức Thánh Linh, nhìn thẳng vào tên thuật sĩ ấy và nói: “Ngươi là con cái của ma quỷ, kẻ thù của mọi điều công chính, đầy xảo trá và độc ác! Ngươi cứ bẻ cong đường ngay thẳng của Chúa mãi sao? Nầy, bây giờ tay Chúa trừng phạt ngươi; ngươi sẽ bị mù, không thấy mặt trời trong một thời gian.” Lập tức, sự mù lòa, tối tăm giáng trên Ê-ly-ma; anh ta đi quờ quạng, tìm người nắm tay dắt mình đi. Quan tổng đốc thấy sự việc xảy ra thì tin, vì ông kinh ngạc về đạo lý của Chúa. Phao-lô và các bạn đồng hành từ Pa-phô đáp tàu đến Pẹt-giê trong xứ Pam-phi-ly. Nhưng Giăng lìa họ, trở về Giê-ru-sa-lem. Từ Pẹt-giê họ tiếp tục đi đến An-ti-ốt xứ Pi-si-đi. Đến ngày sa-bát, họ vào ngồi trong nhà hội. Sau khi đọc sách luật pháp và tiên tri, các vị lãnh đạo nhà hội sai người nói với họ: “Thưa anh em, nếu có lời nào khích lệ dân chúng, xin hãy nói.” Phao-lô đứng dậy, lấy tay ra hiệu rồi nói: “Thưa đồng bào Y-sơ-ra-ên và những người kính sợ Đức Chúa Trời, xin hãy nghe đây: Đức Chúa Trời của dân Y-sơ-ra-ên nầy đã chọn tổ phụ chúng ta, làm cho dân nầy thịnh vượng trong lúc kiều ngụ tại Ai Cập; Ngài dùng cánh tay quyền năng dẫn họ ra khỏi xứ đó. Ngài chịu đựng họ khoảng bốn mươi năm trong hoang mạc. Khi đã tiêu diệt bảy dân trong đất Ca-na-an, Ngài cho họ làm chủ đất ấy trong khoảng bốn trăm năm mươi năm. Sau đó, Ngài lập cho họ các quan xét cho đến đời tiên tri Sa-mu-ên. Bấy giờ họ xin một vua, nên Đức Chúa Trời ban cho Sau-lơ, con trai của Kích, thuộc bộ tộc Bên-gia-min, cai trị họ trong bốn mươi năm. Rồi Ngài bỏ vua đó, lập Đa-vít làm vua. Ngài làm chứng về ông rằng: ‘Ta đã tìm thấy Đa-vít con trai của Gie-sê, là người Ta hài lòng, người sẽ thi hành mọi ý muốn Ta.’ Từ dòng dõi Đa-vít, Đức Chúa Trời đã dấy lên cho Y-sơ-ra-ên một Cứu Chúa, tức là Đức Chúa Jêsus như Ngài đã hứa. Trước khi Đức Chúa Jêsus đến, Giăng đã rao giảng báp-têm về sự ăn năn cho cả dân Y-sơ-ra-ên. Khi sắp hoàn tất công tác mình, Giăng nói: ‘Các ông tưởng tôi là ai? Tôi không phải là Đấng các ông tưởng đâu, nhưng kìa, có Đấng đến sau tôi, tôi không xứng đáng cởi dép cho Ngài.’ Thưa anh em là con cháu của dòng dõi Áp-ra-ham, và những người kính sợ Đức Chúa Trời, sứ điệp cứu rỗi nầy được gửi đến cho chính chúng ta. Vì dân chúng và các vị lãnh đạo của họ ở Giê-ru-sa-lem không nhận biết Đức Chúa Jêsus, cũng không hiểu các lời tiên tri mà người ta thường đọc mỗi ngày sa-bát. Tuy nhiên, khi kết án Ngài, họ đã làm cho những lời tiên tri ấy được ứng nghiệm. Mặc dù chẳng tìm thấy lý do nào để lên án tử hình, họ vẫn yêu cầu Phi-lát giết Ngài. Khi họ đã làm ứng nghiệm mọi điều chép về Ngài rồi thì hạ Ngài xuống khỏi thập tự giá và an táng trong mộ. Nhưng Đức Chúa Trời đã khiến Ngài sống lại từ cõi chết. Trong nhiều ngày, Ngài đã hiện ra cho những người theo Ngài từ Ga-li-lê lên Giê-ru-sa-lem; hiện nay họ đều làm chứng về Ngài cho dân chúng. Còn chúng tôi thì rao truyền cho anh em Tin Lành mà Đức Chúa Trời đã hứa cho tổ phụ chúng ta rằng Ngài đã làm ứng nghiệm lời hứa đó cho chúng ta, là con cháu của họ, bằng cách khiến Đức Chúa Jêsus sống lại, như đã chép trong Thi Thiên thứ hai: ‘Con là Con Ta, ngày nay Ta đã sinh ra Con.’ Ngài đã khiến Đức Chúa Jêsus sống lại từ cõi chết, không bao giờ bị rữa nát, như lời Ngài đã phán: ‘Ta sẽ ban cho các con phước hạnh thánh và chắc chắn mà Ta đã hứa với Đa-vít.’ Do đó, một Thi Thiên khác cũng có nói: ‘Chúa chẳng cho Đấng Thánh Ngài thấy sự rữa nát.’ Thế mà sau khi phục vụ cho mục đích của Đức Chúa Trời trong thời đại mình, vua Đa-vít đã qua đời, được chôn cất bên cạnh các tổ phụ mình và đã thấy sự rữa nát; còn Đấng mà Đức Chúa Trời đã khiến sống lại thì chẳng thấy sự rữa nát. Vậy, thưa anh em, hãy nhận biết rằng nhờ Đấng đó mà sự tha tội được công bố cho anh em; nhờ Ngài, tất cả những người tin đều được xưng công chính về mọi điều mà luật pháp Môi-se không thể xưng công chính được. Vì thế, hãy cẩn thận, đừng để mắc phải điều các nhà tiên tri đã nói: ‘Nầy kẻ ngạo mạn! Hãy kinh hãi và biến mất đi! Vì trong thời các ngươi, Ta sẽ làm một việc, Dù có ai thuật lại, các ngươi cũng chẳng tin!’” Khi Phao-lô và Ba-na-ba bước ra, họ thỉnh cầu hai ông tiếp tục giảng luận các lời ấy vào ngày sa-bát sau. Khi buổi nhóm đã tan, nhiều người Do Thái và người ngoại bang theo Do Thái giáo đi theo Phao-lô và Ba-na-ba. Hai ông nói chuyện và khích lệ họ cứ đứng vững trong ân điển của Đức Chúa Trời. Ngày sa-bát sau, hầu hết dân trong thành họp lại để nghe lời Chúa. Nhưng khi thấy đoàn dân ấy thì những người Do Thái đầy lòng ganh tị, chống đối lời giảng của Phao-lô và phỉ báng ông. Song Phao-lô và Ba-na-ba mạnh dạn nói với họ: “Cần phải ưu tiên truyền đạo Đức Chúa Trời cho anh em; nhưng vì anh em đã từ chối, và tự xét mình không xứng đáng nhận sự sống đời đời, nên bây giờ chúng tôi mới quay sang các dân ngoại. Vì Chúa có truyền phán với chúng tôi: ‘Ta lập ngươi làm ánh sáng cho các dân, để đem sự cứu rỗi đến tận cùng trái đất.’ ” Khi nghe lời nầy, những người ngoại vui mừng, tôn vinh đạo Chúa; những người đã được định cho sự sống đời đời đều tin. Đạo Chúa lan tràn khắp miền ấy. Nhưng các người Do Thái kích động các phụ nữ sùng đạo thuộc giới thượng lưu và những người lãnh đạo trong thành phố, xúi giục họ bắt bớ Phao-lô và Ba-na-ba và đuổi hai ông ra khỏi lãnh thổ của họ. Hai ông phủi bụi nơi chân để phản đối họ, rồi đi đến I-cô-ni. Còn các môn đồ thì được tràn đầy niềm vui và Đức Thánh Linh.

YouVersion sử dụng cookies để cá nhân hóa trải nghiệm của bạn. Bằng cách sử dụng trang web của chúng tôi, bạn chấp nhận việc chúng tôi sử dụng cookies như được mô tả trong Chính sách Bảo mậtcủa chúng tôi