Biểu trưng YouVersion
Biểu tượng Tìm kiếm

I Các Vua 2:1-46

I Các Vua 2:1-46 Kinh Thánh Tiếng Việt 1925 (VIE1925)

Khi ngày của Đa-vít hầu trọn, người truyền lịnh cho Sa-lô-môn, con trai mình, mà rằng: Ta hầu đi con đường chung của cả thế-gian, khá mạnh-dạn và nên người trượng-phu! Hãy giữ điều Giê-hô-va Đức Chúa Trời muốn con giữ, để đi trong đường lối Ngài, gìn-giữ những luật-pháp, điều-răn, mạng-lịnh, và sự dạy-dỗ của Ngài, y như đã chép trong luật-pháp của Môi-se, hầu cho con làm điều chi hay là đi nơi nào cũng đều được thành-công, và Đức Giê-hô-va sẽ làm ứng-nghiệm lời Ngài đã phán về ta, rằng: Nhược bằng các con trai ngươi cẩn-thận về đường-lối mình, hết lòng, hết ý theo lẽ thật mà đi ở trước mặt ta, thì ngươi sẽ chẳng hề thiếu người ngồi trên ngôi Y-sơ-ra-ên. Con biết sự Giô-áp, con trai Xê-ru-gia, đã làm cho cha, sự nó đã làm cho hai quan tướng của Y-sơ-ra-ên, là Áp-ne, con trai của Nê-rơ, và A-ma-sa, con trai của Giê-the, là hai người nó đã giết, làm đổ huyết ra trong lúc hòa-bình như trong cơn chiến-trận, và khiến cho huyết đổ ra trong chiến-trận dính vào đai nó thắt lưng, cùng vào giày nó mang nơi chân. Con hãy cứ sự khôn-ngoan con mà cư-xử, chớ để đầu bạc nó xuống âm-phủ cách bình-yên. Con hãy ở với các con trai Bát-xi-lai, người Ga-la-át, cách nhân-từ cho họ ăn đồng bàn cùng con; vì chính chúng nó đã đãi cha như vậy, mà đến đón rước cha, lúc cha chạy trốn trước mặt Áp-sa-lôm, anh con. Nầy còn kẻ ở với con, là Si-mê-i, con trai Ghê-ra, người Bên-gia-min, ở Ba-hu-rim, là kẻ lấy những lời độc-ác mà nguyền-rủa cha trong ngày cha đi đến Ma-ha-na-im; nhưng nó xuống đón cha tại Giô-đanh, thì cha đã nhân danh Đức Giê-hô-va mà thề với nó rằng: Ta sẽ chẳng giết ngươi bằng gươm. Bây giờ, con chớ để nó khỏi phạt, vì con là khôn-ngoan, biết thế nào phải xử nó: Con khá làm cho đầu bạc nó dính máu mà xuống âm-phủ. Đa-vít an-giấc với các tổ-phụ mình, và được chôn trong thành Đa-vít. Những ngày Đa-vít trị-vì trên Y-sơ-ra-ên là bốn mươi năm: Người trị-vì bảy năm tại Hếp-rôn, và ba mươi ba năm tại Giê-ru-sa-lem. Đoạn, Sa-lô-môn ngồi trên ngai Đa-vít, cha mình, và nước người được lập rất vững-bền. A-đô-ni-gia, con trai Ha-ghít, đến cùng Bát-Sê-ba, mẹ của Sa-lô-môn. Bà nói: Ngươi đến có ý bình-an chớ? Người thưa rằng: Phải, có ý bình-an. Người lại rằng: Tôi có một lời nói cùng bà. Bà đáp: Hãy nói. Người tiếp: Bà biết rằng nước vốn thuộc về tôi, và cả Y-sơ-ra-ên đều mong thấy tôi trị-vì; nhưng ngôi nước đã trở nên của em tôi, vì do nơi Đức Giê-hô-va mà thuộc về người. Vậy bây giờ, tôi có một sự xin với bà, chớ từ-chối. Bà đáp: Hãy nói. Người nói: Xin bà hãy nói với vua Sa-lô-môn (vì người chẳng chối gì với bà), và cầu người cho tôi lấy A-bi-sác, người Su-nem, làm vợ. Bát-Sê-ba đáp: Được, ta sẽ nói với vua giùm cho ngươi. Bát-Sê-ba đi đến vua Sa-lô-môn, để nói với người giùm cho A-đô-ni-gia. Vua đứng dậy đi đón bà, cúi xuống lạy bà; đoạn, người ngồi trên ngai mình, và sai đặt một ngai khác cho mẹ mình; bà bèn ngồi bên tay hữu vua. Bà nói với vua rằng: Mẹ có một việc nhỏ xin con, con chớ từ-chối. Vua đáp: Mẹ ôi! Xin hãy nói; vì tôi sẽ chẳng từ-chối với mẹ đâu. Bà tiếp: Hãy ban A-bi-sác, người Su-nem, làm vợ A-đô-ni-gia, là anh con. Nhưng vua Sa-lô-môn thưa cùng mẹ mình rằng: Cớ sao mẹ xin A-bi-sác, người Su-nem, cho A-đô-ni-gia? Cũng hãy xin nước cho người luôn, vì người là anh cả tôi; hãy xin cho người, cho thầy tế-lễ A-bia-tha, và cho Giô-áp, con trai Xê-ru-gia. Vua Sa-lô-môn bèn chỉ Đức Giê-hô-va mà thề rằng: A-đô-ni-gia có nói lời đó nghịch với mạng-sống mình; bằng chẳng, nguyện Đức Chúa Trời xử tôi cách nặng-nề! Bây giờ, tôi chỉ Đức Giê-hô-va hằng sống, là Đấng đã làm cho tôi vững-vàng, và khiến tôi ngồi trên ngai của Đa-vít, cha tôi, cùng lập một nhà cho tôi y như lời Ngài đã hứa, mà thề rằng: A-đô-ni-gia sẽ bị xử-tử chính ngày hôm nay. Vua Sa-lô-môn bèn truyền lịnh cho Bê-na-gia, con trai Giê-hô-gia-đa, xông đánh A-đô-ni-gia, thì người chết. Đoạn, vua nói với thầy tế-lễ A-bia-tha rằng: Hãy lui về A-na-tốt, trong đất ngươi, vì ngươi đáng chết. Song ngày nay ta không giết ngươi, vì ngươi có khiêng hòm giao-ước của Chúa Giê-hô-va, trước mặt Đa-vít, là cha ta, và bởi vì ngươi đã bị hoạn-nạn trong các sự hoạn-nạn của cha ta. Như vậy, Sa-lô-môn đuổi A-bia-tha ra đi không cho làm thầy tế-lễ của Đức Giê-hô-va nữa, hầu cho lời của Đức Giê-hô-va đã phán về nhà Hê-li, tại Si-lô, được ứng-nghiệm. Tin nầy thấu đến Giô-áp. (Vả Giô-áp đã theo phe A-đô-ni-gia, dầu không có theo phe của Áp-sa-lôm.) Người liền trốn đến Đền-tạm của Đức Giê-hô-va, và nắm sừng của bàn-thờ. Người ta đến tâu với vua Sa-lô-môn rằng: Giô-áp đã trốn đến Đền-tạm của Đức Giê-hô-va, và kìa người đứng bên cạnh bàn-thờ. Sa-lô-môn bèn sai Bê-na-gia, con trai Giê-hô-gia-đa, mà dặn rằng: Hãy đi đánh giết hắn đi. Bê-na-gia đi đến Đền-tạm của Đức Giê-hô-va, nói cùng Giô-áp rằng: Vua có nói như vầy: Hãy ra khỏi đó. Giô-áp đáp: Không; ta muốn chết tại đây. Bê-na-gia đi thuật lại cho vua, và tâu rằng: Giô-áp đã nói và đáp lại như vậy. Vua nói rằng: Hãy làm y như hắn nói. Hãy giết hắn và chôn đi. Như vậy, ngươi sẽ cất khỏi ta và khỏi nhà cha ta huyết mà Giô-áp đã đổ ra vô cớ. Đức Giê-hô-va sẽ khiến huyết hắn đổ lại trên đầu hắn, vì hắn đã xông vào hai người công-bình hơn, tốt hơn hắn, và giết họ bằng gươm, mà Đa-vít, cha ta, không hay đến chi cả: ấy là Áp-ne, con trai của Nê-rơ, quan tướng của đạo-binh Y-sơ-ra-ên, và A-ma-sa, con trai Giê-the, quan tướng của đạo-binh Giu-đa. Huyết hai người ấy sẽ đổ lại trên đầu Giô-áp và trên đầu của dòng-dõi nó cho đến đời đời; còn phần Đa-vít và dòng-dõi người, nhà và ngôi nước người sẽ nhờ Đức Giê-hô-va mà được bình-yên mãi mãi. Vậy, Bê-na-gia, con trai Giê-hô-gia-đa, trở lên xông vào Giô-áp và giết người. Người được chôn ở nhà người, tại nơi đồng vắng. Vua đặt Bê-na-gia, con trai Giê-hô-gia-đa, làm quan tổng-binh thay cho Giô-áp, và lập Xa-đốc làm thầy tế-lễ thay cho A-bia-tha. Đoạn, vua sai đòi Si-mê-i, và nói với người rằng: Hãy cất cho ngươi một cái nhà tại Giê-ru-sa-lem, và ở đó; chớ ra đặng đi đầu nầy đầu kia. Vì khá biết rằng ngày nào ngươi ra khỏi đó, và đi qua khe Xết-rôn, thì chắc ngươi sẽ chết: Huyết ngươi sẽ đổ lại trên đầu ngươi. Si-mê-i thưa với vua rằng: Lời ấy phải lắm, vua-chúa tôi phán dặn điều gì, kẻ tôi-tớ vua sẽ làm điều đó. Vậy, Si-mê-i ở lâu ngày tại Giê-ru-sa-lem. Cuối ba năm, xảy có hai kẻ tôi-tớ của Si-mê-i trốn đến nhà A-kích, con trai Ma-a-ca, vua của Gát. Người ta đến thuật điều đó cho Si-mê-i mà rằng: Kìa, hai kẻ tôi-tớ ông ở tại Gát. Si-mê-i chỗi dậy, thắng lừa mình, đi đến Gát, nơi nhà A-kích, đặng tìm hai kẻ tôi-tớ mình. Gặp đoạn, bèn dẫn chúng nó về. Người ta thuật cho Sa-lô-môn rằng Si-mê-i ở Giê-ru-sa-lem đã đi đến Gát, rồi trở về. Vua sai đòi Si-mê-i mà phán rằng: Ta há chẳng có bắt ngươi chỉ Đức Giê-hô-va mà thề, và bảo ngươi trước rằng: Khá biết rằng ngày nào ngươi ra, và đi đầu nầy đầu kia, thì ngươi chắc sẽ chết, sao? Và ngươi có thưa cùng ta rằng: Lời tôi đã nghe, thậm phải. Vậy, cớ sao ngươi không giữ lời chỉ Đức Giê-hô-va mà thề, và mạng-lịnh ta đã truyền cho ngươi? Vua lại nói với Si-mê-i rằng: Ngươi biết mọi sự ác ngươi đã làm cho Đa-vít, là cha ta, mà lòng ngươi vẫn còn nhớ lắm. Vậy nên Đức Giê-hô-va sẽ khiến sự ác của ngươi đổ lại trên đầu ngươi. Nhưng vua Sa-lô-môn sẽ được phước, và ngôi của Đa-vít sẽ được lập vững-bền trước mặt Đức Giê-hô-va đến đời đời. Đoạn, vua truyền lịnh cho Bê-na-gia, con trai Giê-hô-gia-đa; người bèn đi ra đánh giết Si-mê-i. Như vậy, ngôi nước được vững-bền trong tay Sa-lô-môn.

I Các Vua 2:1-46 Kinh Thánh Bản Dịch Mới (NVB)

Khi ngày Đa-vít qua đời đến gần, Đa-vít khuyên dặn Sa-lô-môn, con trai của mình rằng: “Cha sắp đi vào con đường mọi người trên đất phải đi qua. Vậy con hãy mạnh mẽ, hãy chứng tỏ con là một bậc trượng phu, và hãy để ý kỹ những gì CHÚA là Đức Chúa Trời của con đòi hỏi nơi con. Con hãy đi trong đường lối Ngài, vâng giữ những mạng lịnh, điều răn, luật pháp và quy tắc của Ngài như đã chép trong kinh luật Môi-se, để con được thịnh vượng trong mọi việc con làm và nơi nào con đi đến, hầu cho Chúa sẽ giữ lời hứa của Ngài đã hứa với cha rằng: ‘Nếu hậu tự của ngươi biết cẩn trọng sống trước mặt Ta; nếu chúng hết lòng và hết tâm hồn mà bước đi cách trung thành trước mặt Ta, thì ngươi sẽ không lo có một người kế vị ngồi trên ngôi của Y-sơ-ra-ên.’ Ngoài ra, con cũng biết những việc Giô-áp con trai Giê-ru-a đã làm cho cha, thế nào hắn đã đối với hai vị chỉ huy quân đội Y-sơ-ra-ên, tức là Áp-ne con trai Nê-rơ và A-ma-sa, con trai Giê-the. Hắn đã giết hai người ấy, làm đổ máu họ ra trong thời bình như thể ngoài trận mạc. Hắn đã làm vấy máu chiến trường nơi đai lưng của hắn và trên giày của hắn mang nơi chân. Con hãy dựa vào sự khôn ngoan của con mà xử sự trong việc nầy, và đừng để đầu bạc của hắn bình an đi xuống âm phủ. Con hãy đối xử tử tế với các con trai Bát-xi-lai, người Ga-la-át; hãy để họ ăn đồng bàn với con. Vì họ đã đứng bên cha, khi cha chạy trốn khỏi Áp-sa-lôm, anh con. Con cũng có Si-mê-i, con trai Ghê-ra, người Bên-gia-min, ở Ba-hu-rim. Hắn đã lấy những lời độc hại rủa sả cha trong ngày cha đi đến Ma-ha-na-im, nhưng khi hắn xuống đón cha ở bờ sông Giô-đanh, cha có nhân danh Chúa mà thề với hắn rằng: ‘Ta sẽ không giết ngươi bằng gươm.’ Nhưng con chớ coi hắn là vô tội, vì con khôn ngoan và biết phải đối xử với hắn thể nào. Con hãy làm cho hắn phải mang đầu bạc dính máu mà xuống âm phủ.” Rồi Đa-vít an giấc cùng các tổ phụ mình, và được chôn trong thành Đa-vít. Những ngày Đa-vít trị vì trên Y-sơ-ra-ên là bốn mươi năm. Vua trị vì bảy năm tại Hếp-rôn và ba mươi ba năm tại Giê-ru-sa-lem. Vậy Sa-lô-môn ngồi trên ngai Đa-vít, cha mình, và vương quốc của Sa-lô-môn được thiếp lập vững vàng. A-đô-ni-gia, con trai Ha-ghít đến gặp Bát-sê-ba, mẹ của Sa-lô-môn. Bà hỏi: “Ngươi đến có ý bình an chăng?” A-đô-ni-gia đáp: “Vâng, bình an.” Rồi nói tiếp: “Xin cho tôi có một lời thưa cùng bà.” Bà đáp: “Hãy nói đi.” A-đô-ni-gia nói: “Chắc bà cũng biết là vương quốc nầy đáng lý thuộc về tôi, và cả Y-sơ-ra-ên đều mong đợi tôi trị vì, nhưng vương quốc đã quay trở thành của em tôi, ấy là do nơi Chúa mà thôi. Nhưng bây giờ tôi có một điều muốn xin bà, mong bà đừng từ chối.” Bà đáp: “Hãy nói đi.” A-đô-ni-gia nói, “Xin bà hãy nói với vua Sa-lô-môn, vì vua chẳng từ chối với bà điều gì, xin vua ban cho tôi A-bi-sắc, người Su-nem, làm vợ.” Bát-sê-ba đáp: “Được, ta sẽ nói với vua cho ngươi.” Bát-sê-ba đến gặp vua Sa-lô-môn để xin vua giùm cho A-đô-ni-gia. Vua đứng dậy đón bà và cúi đầu trước mặt bà; đoạn vua ngồi xuống trên ngai, rồi truyền đem một ngai nữa cho thái hậu, và bà ngồi bên phải vua. Bấy giờ bà nói: “Mẹ có một việc nhỏ xin con, mong con đừng từ chối.” Vua đáp: “Thưa mẹ, xin mẹ hãy nói, con sẽ không từ chối đâu.” Bà nói: “Hãy ban A-bi-sắc, người Su-nem, làm vợ A-đô-ni-gia, anh con.” Nhưng vua Sa-lô-môn đáp với thái hậu rằng: “Tại sao mẹ lại xin A-bi-sắc, người Su-nem, cho A-đô-ni-gia? Sao mẹ không xin cả vương quốc nầy cho anh ấy luôn. Vì anh ấy là anh của con mà. Sao mẹ không xin cho anh ấy thầy tế lễ A-bia-tha và Giô-áp, con trai Giê-ru-a luôn một thể đi.” Bấy giờ vua Sa-lô-môn nhân danh Chúa mà thề rằng: “Nguyện Chúa đối xử với tôi, nguyện Ngài phạt tôi cách nặng nề, nếu A-đô-ni-gia không bị thiệt mạng vì lời yêu cầu nầy. Vậy bây giờ, tôi nhân danh Chúa hằng sống, là Đấng đã làm cho tôi được vững vàng, đã đặt tôi trên ngai của Đa-vít, cha tôi, và xây dựng một nhà cho tôi, mà nói rằng, A-đô-ni-gia phải bị xử tử hôm nay.” Vua Sa-lô-môn truyền lịnh cho Bê-na-gia, con trai Giê-hô-gia-đa. Bê-na-gia đến giết A-đô-ni-gia và A-đô-ni-gia chết. Vua truyền cho thầy tế lễ A-bia-tha: “Hãy về A-na-tốt, nơi sản nghiệp ngươi, vì ngươi đáng chết. Nhưng hôm nay ta không giết ngươi, vì ngươi có khiêng rương của Chúa Hằng Hữu trước mặt Đa-vít, cha ta, và vì ngươi có chia sẻ những khổ cực mà cha ta đã gánh chịu.” Vậy, Sa-lô-môn đuổi A-bia-tha đi, không cho làm thầy tế lễ truớc mặt Chúa nữa, hầu cho lời của Chúa đã phán tại Si-lô về gia tộc của thầy tế lễ Hê-li được ứng nghiệm. Khi tin nầy đến tai Giô-áp, vì Giô-áp đã ủng hộ A-đô-ni-gia, dù ông không ủng hộ Áp-sa-lôm, thì ông liền trốn đến Đền Tạm của Chúa và nắm lấy sừng ở góc bàn thờ. Người ta tâu với vua Sa-lô-môn rằng: “Giô-áp đã trốn đến Đền Tạm của Chúa, và kìa ông ấy đang nắm lấy sừng ở góc bàn thờ.” Sa-lô-môn truyền cho Bê-na-gia, con trai Giê-hô-gia-đa rằng: “Hãy đi, giết hắn đi.” Vậy Bê-na-gia đến Đền Tạm của Chúa và nói với ông: “Vua truyền rằng: Ông hãy ra khỏi nơi đó.” Nhưng Giô-áp đáp: “Không. Ta sẽ chết ở đây.” Bê-na-gia về tâu lại cho vua: “Tôi có nói với Giô-áp thế nầy, và ông ấy đã đáp lại thế kia.” Vua phán: “Hãy làm y như ông ấy đã nói. Hãy giết ông ấy và đem chôn ông ấy đi. Như thế ta và nhà cha ta sẽ được cất khỏi máu vô tội mà Giô-áp đã làm chảy ra vô cớ. Chúa sẽ báo trả những hành động đẫm máu lại trên đầu ông ấy. Bởi vì, trong khi cha ta là Đa-vít không biết, thì ông ấy đã tấn công và giết chết hai người ngay lành và tốt hơn ông ấy. Đó là Áp-ne, con trai Nê-rơ, chỉ huy quân đội Y-sơ-ra-ên, và A-ma-sa, con trai Giê-the, chỉ huy quân đội Giu-đa. Vậy máu của họ sẽ đổ lại trên đầu của Giô-áp và trên đầu của dòng dõi ông ấy đời đời; nhưng Đa-vít và dòng dõi người, cùng nhà người, và ngôi nước người sẽ được bình an từ nơi Chúa mãi mãi.” Vậy Bê-na-gia, con trai Giê-hô-gia-đa, đi lên, đánh hạ Giô-áp và giết chết ông ta. Người ta chôn ông ta tại nhà ông, gần sa mạc. Vua đặt Bê-na-gia, con trai Giê-hô-gia-đa, chỉ huy quân đội thay cho Giô-áp, và vua cũng đặt thầy tế lễ Xa-đốc thay thế chức vụ của A-bia-tha. Sau đó vua truyền cho Si-mê-i vào chầu và phán: “Hãy cất cho ngươi một cái nhà trong Giê-ru-sa-lem và ở đó. Chớ đi ra khỏi đó để đi đây đi đó. Vì ngươi khá biết rằng hễ ngày nào ngươi ra khỏi đó mà vượt qua khỏi khe Kít-rôn thì ngươi chắc sẽ chết. Máu của ngươi sẽ đổ lại trên đầu ngươi.” Si-mê-i tâu với vua: “Lời của hoàng thượng thật chí lý. Hoàng thượng là chúa của hạ thần đã truyền dạy thế nào, hạ thần sẽ làm y như vậy.” Vậy Si-mê-i sống ở Giê-ru-sa-lem lâu ngày. Nhưng sau ba năm, có hai đầy tớ của Si-mê-i bỏ trốn đến A-kích, con trai Ma-a-ca, vua của Gát. Người ta báo cho Si-mê-i rằng: “Kìa, các đầy tớ của ông đang ở tại Gát.” Si-mê-i liền chỗi dậy, thắng lừa, và đi đến Gát, gặp A-kích để tìm các đầy tớ của ông. Vậy Si-mê-i đi đến Gát và bắt các đầy tớ của ông về. Khi vua Sa-lô-môn được tâu rằng Si-mê-i đã rời Giê-ru-sa-lem đi đến Gát và đã trở về, vua cho gọi Si-mê-i vào và nói với ông: “Có phải ta đã bắt ngươi thề trước mặt Chúa và cảnh cáo ngươi rằng: ‘Ngày nào ngươi rời khỏi Giê-ru-sa-lem mà đi đây đi đó thì ngươi chắc sẽ chết sao?’ Ngươi đã nói với ta rằng: ‘Lời vua nói rất đúng. Tôi sẽ tuân theo.’ Thế tại sao ngươi không vâng giữ lời ngươi đã thề trước mặt CHÚA và tuân theo lệnh ta đã truyền cho ngươi?” Vua lại nói tiếp với Si-mê-i: “Ngươi đã biết và lòng ngươi cũng đã quá rõ những việc ác mà ngươi đã làm cho Đa-vít, cha ta. Bây giờ Chúa sẽ báo trả cho ngươi những việc ác ngươi đã làm. Nhưng vua Sa-lô-môn sẽ được ban phước, và ngôi của Đa-vít sẽ tồn tại cách vững bền trước mặt CHÚA đến đời đời.” Đoạn, vua truyền lịnh cho Bê-na-gia, con trai Giê-hô-gia-đa. Ông ấy đi đánh hạ Si-mê-i và Si-mê-i chết. Bấy giờ vương quốc được thiết lập vững vàng trong tay Sa-lô-môn.

I Các Vua 2:1-46 Kinh Thánh Hiện Đại (KTHD)

Khi sắp qua đời, Vua Đa-vít ban huấn lệnh cho Sa-lô-môn, con mình, như sau: “Ta sắp đi vào con đường chung của thế nhân. Phần con, phải mạnh dạn tỏ ra đáng bậc nam nhi. Phải tuân giữ mệnh lệnh Chúa Hằng Hữu, Đức Chúa Trời của con, đi theo đường lối Ngài, tuân giữ tất cả những điều răn, luật lệ, quy tắc, và chỉ thị đã ghi trong Luật Môi-se. Như thế, dù đi đến đâu hay làm việc gì, con sẽ được thành công; và Chúa Hằng Hữu sẽ thực hiện lời Ngài đã phán hứa: ‘Nếu con cháu ngươi bước đi thận trọng, hết lòng, hết linh hồn, trung thành với Ta, chúng nó sẽ tiếp tục làm vua Ít-ra-ên mãi mãi.’ Ngoài ra, con cũng biết Giô-áp, con Xê-ru-gia đã đối xử với ta như thế nào. Hắn đã sát hại hai tướng Ít-ra-ên là Áp-ne, con Nê-rơ và A-ma-sa, con Giê-the. Hắn gây đổ máu trong thời bình cũng như thời chiến, còn máu chiến tranh vẫn dính đầy thắt lưng và giày hắn. Con phải hành động khôn khéo, đừng để cho lão già ấy an ổn xuống mồ. Còn đối với các con Bát-xi-lai, người Ga-la-át, con phải tử tế, cho họ ăn cùng bàn với con, vì họ đã giúp đỡ ta khi ta chạy trốn Áp-sa-lôm, anh con. Riêng về Si-mê-i, con Ghê-ra, người Bên-gia-min ở Ba-hu-rim, người này đã nguyền rủa ta thậm tệ lúc ta đi Ma-ha-na-im ngày ấy, nhưng khi người này xuống sông Giô-đan gặp ta, ta có nhân danh Chúa Hằng Hữu thề sẽ không giết nó. Tuy nhiên, con đừng kể nó là vô tội. Là người khôn ngoan, con biết phải xử sự thế nào. Phải cho đầu bạc nó vấy máu khi xuống mồ.” Đa-vít an nghỉ với các tổ tiên, được chôn trong Thành Đa-vít. Đa-vít trị vì Ít-ra-ên bốn mươi năm, bảy năm ở Hếp-rôn và ba mươi ba năm ở Giê-ru-sa-lem. Sa-lô-môn ngồi trên ngôi Đa-vít, cha mình, và ngôi nước được vững bền. A-đô-ni-gia, con Hà-ghi đến tìm Bát-sê-ba, mẹ Sa-lô-môn. Bà hỏi: “Anh đến với tinh thần hiếu hòa chứ?” Thưa: “Vâng, hiếu hòa.” A-đô-ni-gia tiếp: “Con có lời xin thưa với bà.” Bà bảo: “Nói đi.” A-đô-ni-gia nói: “Bà biết nước vốn thuộc về con, cả Ít-ra-ên đều mong con làm vua, nhưng nay nước lại về tay em con, vì Chúa Hằng Hữu muốn thế. Bây giờ, con có một lời thỉnh cầu, xin bà đừng từ chối.” Bà đáp: “Cứ nói.” A-đô-ni-gia nói: “Nhờ bà xin phép Vua Sa-lô-môn giúp—vì vua không từ khước bà—cho con được cưới A-bi-sác, người Su-nem, làm vợ.” Bát-sê-ba nhận lời: “Được. Ta hứa sẽ xin với vua điều đó cho con.” Vậy, Bát-sê-ba đến gặp vua Sa-lô-môn để nói giúp cho A-đô-ni-gia. Vua đứng lên đón và cúi mình chào mẹ; rồi ngồi lại trên ngai. Vua sai đặt ghế cho mẹ ngồi bên phải. Bà nói: “Mẹ có một việc nhỏ xin con, đừng từ chối mẹ.” Vua đáp: “Mẹ nói đi, con không từ chối đâu.” Bà tiếp: “Con cho phép A-đô-ni-gia, anh con, được cưới A-bi-sác, người Su-nem, làm vợ.” Vua Sa-lô-môn trả lời mẹ: “Tại sao mẹ xin A-bi-sác cho A-đô-ni-gia? Sao không xin cả vương quốc cho anh ấy một thể, vì là anh con? Nếu mẹ đã xin cho anh ấy, sao mẹ không xin luôn cho Thầy Tế lễ A-bia-tha và Giô-áp con Xê-ru-gia nữa cho xong!” Vua lại nhân danh Chúa Hằng Hữu thề rằng: “Nguyện Đức Chúa Trời phạt con nặng nề nếu yêu sách của A-đô-ni-gia không làm cho anh ta mất mạng. Con thề có Chúa Hằng Hữu—Đấng đã đặt con làm vua thế cho Đa-vít, cha con, và lập triều đại này như Ngài đã hứa—rằng A-đô-ni-gia phải chết hôm nay!” Vua Sa-lô-môn sai Bê-na-gia, con Giê-hô-gia-đa giết A-đô-ni-gia. Sau đó vua bảo Thầy Tế lễ A-bia-tha: “Hãy hồi hương về sống ở A-na-tốt. Tội ông đáng chết, nhưng bây giờ ta không giết ông vì ông đã khiêng Hòm Giao Ước của Chúa Hằng Hữu Chí Cao trước mặt Đa-vít, cha ta, và ông cũng đã chia sẻ hoạn nạn với cha ta.” Thế là Sa-lô-môn cách chức A-bia-tha, không cho làm chức tế lễ của Chúa Hằng Hữu nữa. Việc này làm ứng nghiệm lời Chúa Hằng Hữu đã phán về nhà Hê-li ở Si-lô. Khi Giô-áp nghe những tin này, Giô-áp là người ủng hộ A-đô-ni-gia dù không theo Áp-sa-lôm, ông liền chạy đến lều tạm của Chúa Hằng Hữu, nắm lấy sừng bàn thờ. Người ta tâu trình cho Sa-lô-môn: “Giô-áp đã trốn vào lều tạm và đang nắm sừng bàn thờ.” Vua sai Bê-na-gia con trai Giê-hô-gia-đa đi giết Giô-áp. Bê-na-gia đến lều tạm của Chúa Hằng Hữu và nói với Giô-áp: “Vua truyền lệnh cho ông đi ra!” Nhưng Giô-áp đáp: “Không, ta chết tại đây.” Bê-na-gia tâu lại với vua những điều Giô-áp nói. Vua đáp: “Cứ làm như lời hắn nói. Giết và chôn hắn đi! Như vậy mới gỡ cho ta và nhà cha ta khỏi huyết vô tội mà Giô-áp đã giết người vô cớ. Vì hắn làm đổ máu người khác, nên Chúa Hằng Hữu khiến máu đổ lại trên đầu hắn. Hắn đã sát hại hai người trung thực và tốt hơn hắn; đó là Áp-ne con Nê-rơ, tư lệnh quân đội Ít-ra-ên; và A-ma-sa, con Giê-the, tư lệnh quân đội Giu-đa, trong khi Đa-vít, cha ta, không hề hay biết. Nguyền máu của họ đổ trên đầu Giô-áp và con cháu hắn đời đời. Còn đối với Đa-vít, con cháu, gia đình, và ngôi nước người sẽ được Chúa Hằng Hữu cho bình an mãi mãi.” Vậy, Bê-na-gia con trai Giê-hô-gia-đa trở lại giết Giô-áp. Ông được chôn tại nhà riêng trong hoang mạc. Vua chỉ định Bê-na-gia con trai Giê-hô-gia-đa làm tướng chỉ huy quân đội thay cho Giô-áp; Xa-đốc làm thầy tế lễ thay cho A-bia-tha. Vua đòi Si-mê-i đến và bảo: “Ngươi phải cất một cái nhà tại Giê-ru-sa-lem và ở đó, không được đi đâu cả. Ngày nào ngươi đi qua Trũng Kít-rôn, ngươi phải chết. Máu ngươi sẽ đổ lại trên đầu ngươi.” Si-mê-i đáp: “Vua nói phải lắm. Tôi xin làm theo lời phán ấy.” Vậy, Si-mê-i ở lại Giê-ru-sa-lem trong một thời gian dài. Ba năm sau, hai người nô lệ của Si-mê-i chạy trốn đến với A-kích, con Ma-a-ca, vua đất Gát. Có người báo cho Si-mê-i hay. Ông thắng lừa đi đến Gát gặp A-kích, tìm được hai người nô lệ và dẫn họ về. Khi Sa-lô-môn nghe Si-mê-i rời Giê-ru-sa-lem và đi Gát về, liền đòi đến tra hỏi: “Ta đã bảo ngươi thề nhân danh Chúa và cảnh cáo ngươi rằng: ‘Ngày nào ngươi bỏ đi bất kỳ nơi đâu, ngươi phải chết,’ và ngươi có đáp: ‘Vua nói đúng. Tôi xin vâng lời.’ Tại sao ngươi không giữ lời thề với Chúa Hằng Hữu và không tuân lệnh ta?” Vua tiếp lời: “Những điều ác ngươi chủ tâm làm cho Đa-vít cha ta ngươi còn nhớ đó chứ! Chúa Hằng Hữu sẽ khiến những điều ác ấy quay lại đổ lên đầu ngươi. Ngược lại, ta sẽ được phước lành, và ngôi nhà Đa-vít sẽ được vững bền trước mặt Chúa Hằng Hữu đời đời.” Vua ra lệnh cho Bê-na-gia con trai Giê-hô-gia-đa giết Si-mê-i. Như vậy, Sa-lô-môn củng cố được vương quốc mình.

I Các Vua 2:1-46 Thánh Kinh: Bản Phổ thông (BPT)

Lúc Đa-vít gần qua đời thì ông trối với Sô-lô-môn con trai mình. Đa-vít bảo, “Giờ qua đời của cha đã gần kề. Hãy lãnh đạo cho tốt và mạnh mẽ. Hãy vâng lời CHÚA là Thượng Đế con. Hãy vâng theo các điều đòi hỏi, mệnh lệnh, luật lệ, và qui tắc của Ngài đã ghi trong các lời giáo huấn của Mô-se. Nếu con làm những như thế thì bất cứ việc gì con làm hay con đi đâu thì con cũng sẽ thành công. Và nếu con vâng lời CHÚA, Ngài sẽ giữ lời hứa Ngài lập cùng ta. Ngài hứa: Nếu dòng dõi ngươi sống theo như ta dặn và hoàn toàn tin cậy ta, thì trong gia đình ngươi lúc nào cũng có người làm vua trên Ít-ra-en. Ngoài ra, con đừng quên điều Giô-áp, con Xê-ru-gia làm cho cha. Nó giết hai vị chỉ huy của quân đội Ít-ra-en: Áp-ne, con Nê-rơ, và A-ma-xa, con Gie-thê. Nó hành động như thể nó và những người ấy đang chiến đấu với nhau nhưng thật ra là đang hòa bình. Nó là tên khát máu, vấy máu đầy mình. Hãy trừng phạt nó theo cách mà con cho là khôn ngoan nhất, đừng để nó chết già bình yên. Hãy tỏ lòng trung kiên đối với con cháu Bát-xi-lai ở Ghi-lê-át, cho chúng nó ăn chung bàn với con. Họ đã tiếp đón ta khi ta chạy trốn khỏi Áp-xa-lôm, anh con. Và hãy nhớ rằng Si-mê-i, con Ghê-ra, người Bên-gia-min, từ Ba-hu-rim đang ở đây với con. Nó chửi rủa ta trong ngày ta chạy đến Ma-ha-na-im. Nhưng khi nó đến đón ta ở sông Giô-đanh, ta đã hứa với nó trước mặt CHÚA rằng, ‘Si-mê-i, ta sẽ không giết ngươi.’ Nhưng con chớ nên để nó thoát khỏi trừng phạt. Con là người khôn ngoan, biết đối xử với nó ra sao, nhưng con phải xử tử nó.” Rồi Đa-vít qua đời và được chôn chung với tổ tiên mình trong thành Đa-vít. Ông cai trị trên Giê-ru-sa-lem bốn mươi năm: bảy năm ở Hếp-rôn, và ba mươi ba năm ở Giê-ru-sa-lem. Sô-lô-môn lên ngôi vua kế vị Đa-vít, cha mình và củng cố quyền hành mình trong nước. Lúc đó A-đô-ni-gia, con Ha-ghít tìm đến Bát-sê-ba, mẹ Sô-lô-môn. Bát-sê-ba hỏi, “Ngươi đến trong thiện chí phải không?” A-đô-ni-gia đáp, “Phải. Đây là cuộc viếng thăm thiện chí,” “Tôi có một điều muốn nói cùng bà.” Bà đáp, “Nói đi.” A-đô-ni-gia nói “Bà nhớ trước đây nước thuộc về tôi. Tất cả dân Ít-ra-en nhìn nhận tôi làm vua họ nhưng tình thế thay đổi. Bây giờ em tôi lên ngôi vua vì CHÚA chọn lựa nó. Nay tôi có một điều muốn xin bà; xin bà đừng từ chối.” Bát-sê-ba hỏi, “Ngươi muốn điều gì?” A-đô-ni-gia tiếp “Tôi biết vua Sô-lô-môn sẽ làm bất cứ điều gì bà yêu cầu. Vậy xin bà xin nhà vua cho phép tôi cưới A-bi-sác người Su-nem làm vợ.” Bà đáp, “Được. Ta sẽ nói với vua giùm cho ngươi.” Vậy Bát-sê-ba vào nói chuyện với Sô-lô-môn giùm cho A-đô-ni-gia. Khi Sô-lô-môn thấy bà liền đứng lên khỏi ngai, cúi chào rồi ngồi xuống. Ông bảo đầy tớ mang một cái ngai khác cho bà ngồi. Rồi bà ngồi kế bên phải vua. Bát-sê-ba nói, “Mẹ có một điều nhỏ muốn xin con, xin con đừng từ chối.” Vua đáp, “Mẹ cứ nói. Con không từ chối đâu.” Bà liền nói, “Con hãy cho A-bi-sác, người Su-nem làm vợ A-đô-ni-gia, anh con.” Vua Sô-lô-môn trả lời, “Tại sao mẹ xin A-bi-sác cho anh ấy? Sao mẹ không xin cho anh ấy làm vua luôn vì là anh con? A-bia-tha thầy tế lễ và Giô-áp, con Xê-ru-gia chắc sẽ ủng hộ chuyện đó lắm!” Vua Sô-lô-môn liền thề trong danh CHÚA rằng, “Nguyện Thượng Đế phạt con nặng nề nếu hắn không chết vì chuyện nầy! Nhân danh CHÚA là Đấng đã ban cho con ngôi Đa-vít, cha con, và Đấng đã giữ lời hứa Ngài ban nước cho con và dòng dõi con, nội ngày nay A-đô-ni-gia sẽ chết!” Rồi vua Sô-lô-môn truyền lệnh cho Bê-nai-gia, con Giê-hô-gia-đa. Người liền đi giết A-đô-ni-gia. Vua Sô-lô-môn bảo thầy tế lễ A-bia-tha, “Ta đáng lẽ cũng giết ngươi luôn nhưng ta cho phép ngươi trở về ruộng nương của mình ở A-na-thốt. Ta chưa giết ngươi lúc nầy vì ngươi đã giúp mang Rương của CHÚA là Thượng Đế trong khi đi với Đa-vít cha ta. Và ta biết ngươi đã chia sẻ sướng khổ với cha ta.” Sô-lô-môn liền cách chức tế lễ của CHÚA khỏi A-bia-tha. Điều nầy xảy ra như lời CHÚA đã phán, khi Ngài bảo trước tại Si-lô về thầy tế lễ Hê-li và dòng dõi ông. Khi Giô-áp nghe những chuyện xảy ra thì đâm ra lo sợ. Ông đã ủng hộ A-đô-ni-gia, nhưng không ủng hộ Áp-xa-lôm. Cho nên Giô-áp chạy đến Lều của CHÚA và nắm các góc bàn thờ. Có người mách với vua Sô-lô-môn là Giô-áp đã chạy đến Lều của CHÚA và đứng cạnh bàn thờ. Sô-lô-môn liền ra lệnh cho Bê-nai-gia đi giết ông ta. Bê-na-gia đi vào Lều của CHÚA và bảo Giô-áp, “Vua nói, ‘Hãy đi ra!’” Nhưng Giô-áp trả lời, “Không. Ta muốn chết ở đây.” Cho nên Bê-nai-gia về trình với vua điều Giô-áp nói. Vua liền ra lệnh cho Bê-na-gia, “Thì cứ làm như hắn nói! Giết hắn ở đó và chôn hắn đi. Như thế, ta và gia đình ta sẽ sạch tội lỗi của Giô-áp, người đã giết những kẻ vô tội. Hắn đã giết hai người tốt hơn hắn: Áp-ne, con Nê-rơ, chỉ huy quân đội Ít-ra-en, và A-ma-xa, con Gie-thê, chỉ huy quân đội Giu-đa mà cha ta không hay biết gì. Cho nên CHÚA sẽ báo trả nó về những cái chết đó. Giô-áp và gia đình nó sẽ mãi mãi mang tội về những cái chết đó, nhưng Đa-vít, dòng dõi người, và ngôi người sẽ được CHÚA giữ an nhiên đời đời.” Vậy Bê-nai-gia, con Giê-hô-gia-đa giết Giô-áp, người ta chôn ông gần nhà ông trong sa mạc. Vua cử Bê-nai-gia, con Giê-hô-gia-đa làm chỉ huy quân đội thay Giô-áp. Vua cũng cử Xa-đốc làm thầy tế lễ thượng phẩm thế thay A-bia-tha. Sau đó vua cho gọi Si-mê-i. Sô-lô-môn bảo hắn, “Hãy cất nhà tại Giê-ru-sa-lem và ở đó, không được ra khỏi thành. Ngày nào ngươi rời thành và băng qua Thung lũng Kít-rôn thì sẽ có người giết ngươi, đó là lỗi của ngươi.” Si-mê-i thưa với vua, “Tôi đồng ý với điều bệ hạ dặn. Tôi sẽ làm điều gì vua chúa tôi biểu.” Vậy Si-mê-i ở Giê-ru-sa-lem trong thời gian khá lâu. Nhưng ba năm sau có hai đứa nô lệ của Si-mê-i chạy trốn đến A-kích, vua của Gát, con Ma-a-ca. Si-mê-i nghe tin mấy đứa nô lệ mình ở Gát, nên thắng yên cương lừa và đi đến A-kích ở Gát để tìm chúng nó rồi mang chúng về từ Gát. Có người thuật cho Sô-lô-môn hay rằng Si-mê-i đã ra khỏi Giê-ru-sa-lem đi đến Gát và trở về. Sô-lô-môn liền cho gọi Si-mê-i lại hỏi, “Ta đã bắt ngươi hứa trong danh CHÚA là không được rời khỏi Giê-ru-sa-lem. Ta đã cảnh cáo ngươi rằng hễ ngươi đi nơi nào khác ngươi sẽ chết và ngươi đã đồng ý điều ta dặn. Tại sao ngươi vi phạm lời hứa với CHÚA và bất tuân mệnh lệnh ta?” Vua tiếp, “Ngươi biết những điều quấy ngươi làm cho Đa-vít, cha ta, cho nên bây giờ CHÚA sẽ phạt ngươi vì những lỗi lầm đó. Nhưng CHÚA sẽ ban phúc cho ta và ngôi của Đa-vít sẽ an toàn đời đời trước mặt Ngài.” Vua liền ra lệnh cho Bê-nai-gia giết Si-mê-i. Ông liền thi hành. Thế là Sô-lô-môn hoàn toàn nắm quyền trong nước.

I Các Vua 2:1-46 Kinh Thánh Tiếng Việt, Bản Dịch 2011 (BD2011)

Khi ngày Đa-vít qua đời đến gần, Đa-vít dặn dò Sa-lô-môn con trai ông rằng, “Cha sắp đi vào con đường mọi người trên đất phải đi qua. Vậy con hãy mạnh mẽ, hãy chứng tỏ con là một bậc trượng phu, và hãy để ý kỹ những gì CHÚA, Đức Chúa Trời của con, đòi hỏi nơi con. Con hãy đi trong đường lối của Ngài, vâng giữ các mạng lịnh, điều răn, luật pháp, và quy tắc của Ngài như đã chép trong Luật Pháp Môi-se, để con được thành công trong mọi việc con làm và trong mọi nơi con đến, hầu CHÚA sẽ giữ lời Ngài đã hứa với cha rằng, ‘Nếu con cháu ngươi biết cẩn trọng sống trước mặt Ta, nếu chúng hết lòng và hết linh hồn bước đi cách trung thành trước mặt Ta, ngươi sẽ không lo có một người kế vị ngồi trên ngai của I-sơ-ra-ên.’ Ngoài ra con cũng đã biết những việc Giô-áp con của bà Xê-ru-gia đã làm cho cha, thế nào ông ấy đã đối với hai vị chỉ huy quân đội của I-sơ-ra-ên, tức Áp-ne con của Ne và A-ma-sa con của Giê-the. Ông ấy đã giết hai người đó, làm đổ máu họ trong thời bình như thể ngoài trận mạc. Ông ấy đã làm vấy máu chiến trường trên đai lưng của ông ấy và trên giày ông ấy mang nơi chân. Con hãy dùng sự khôn ngoan của con mà xử sự trong việc này, và đừng để đầu bạc của ông ấy bình an đi xuống âm phủ. Con hãy đối xử tốt với các con của Bát-xi-lai người Ghi-lê-át. Hãy mời họ ăn đồng bàn với con, vì họ đã đứng bên cha khi cha chạy trốn khỏi Áp-sa-lôm anh con. Con cũng có Si-mê-i con của Ghê-ra người Bên-gia-min ở Ba-hu-rim. Hắn đã lấy những lời độc địa nguyền rủa cha trong ngày cha chạy trốn đến Ma-ha-na-im, nhưng khi hắn xuống đón cha ở bờ Sông Giô-đanh, cha có nhân danh CHÚA mà thề với hắn rằng, ‘Ta sẽ không giết ngươi bằng gươm.’ Nhưng con chớ coi hắn là vô tội, vì con khôn ngoan và biết phải đối xử với hắn thể nào. Con hãy làm cho hắn phải mang đầu bạc dính máu xuống âm phủ.” Sau đó Đa-vít an giấc cùng các tổ tiên ông và được chôn trong Thành Đa-vít. Những ngày Đa-vít trị vì trên I-sơ-ra-ên là bốn mươi năm. Ông trị vì bảy năm tại Hếp-rôn và ba mươi ba năm tại Giê-ru-sa-lem. Vậy Sa-lô-môn ngồi trên ngai Đa-vít cha ông, và vương quốc của Sa-lô-môn được thiết lập vững vàng. A-đô-ni-gia con của Hắc-ghít đến gặp Bát-sê-ba mẹ của Sa-lô-môn. Bà hỏi, “Cậu đến đây có ý bình an chăng?” A-đô-ni-gia đáp, “Thưa, bình an.” Rồi ông nói tiếp, “Tôi có một lời xin thưa với bà.” Bà đáp, “Hãy nói đi.” A-đô-ni-gia nói, “Chắc bà cũng biết là vương quốc này đáng lý thuộc về tôi, và cả I-sơ-ra-ên đều mong đợi tôi trị vì, nhưng bây giờ vương quốc đã thuộc về em tôi; ấy là do CHÚA đã định cho em tôi. Nhưng bây giờ tôi có một điều muốn xin bà, mong bà đừng từ chối.” Bà đáp, “Hãy nói đi.” A-đô-ni-gia nói, “Xin bà hãy nói giùm với Vua Sa-lô-môn, vì vua chẳng từ chối bà điều gì, xin ban cho tôi A-bi-sắc người Su-nem để làm vợ tôi.” Bát-sê-ba đáp, “Được, ta sẽ nói với vua cho ngươi.” Bát-sê-ba đến gặp Vua Sa-lô-môn để xin vua giùm cho A-đô-ni-gia. Vua đứng dậy đón bà và cúi đầu chào bà. Đoạn vua ngồi xuống trên ngai mình, rồi truyền đem đặt một ngai nữa cho thái hậu, và bà ngồi bên phải vua. Bấy giờ bà nói, “Mẹ có một việc nhỏ xin con, mong con đừng từ chối.” Vua đáp, “Thưa mẹ, xin mẹ nói, con sẽ không từ chối đâu.” Bà nói, “Hãy ban A-bi-sắc người Su-nem làm vợ A-đô-ni-gia anh con.” Nhưng Vua Sa-lô-môn đáp với thái hậu, “Tại sao mẹ lại xin A-bi-sắc người Su-nem cho A-đô-ni-gia? Sao mẹ không xin cho anh ấy luôn cả vương quốc này đi? Vì anh ấy là anh con kia mà. Sao mẹ không xin cho anh ấy Tư Tế A-bi-a-tha và Giô-áp con bà Xê-ru-gia luôn một thể đi?” Bấy giờ Vua Sa-lô-môn nhân danh CHÚA mà thề, “Nguyện Đức Chúa Trời phạt ta cách nặng nề nếu A-đô-ni-gia không bị thiệt mạng vì lời yêu cầu này. Vậy bây giờ ta nhân danh CHÚA hằng sống, Đấng đã làm cho ta được vững vàng, đã đặt ta trên ngai của Đa-vít cha ta, và xây dựng một nhà cho ta như Ngài đã hứa, mà nói rằng A-đô-ni-gia phải bị xử tử hôm nay.” Vua Sa-lô-môn truyền lịnh cho Bê-na-gia con của Giê-hô-gia-đa. Bê-na-gia đến giết A-đô-ni-gia và A-đô-ni-gia chết. Vua truyền cho Tư Tế A-bi-a-tha, “Hãy trở về A-na-thốt, nơi sản nghiệp của ngươi, vì ngươi đáng chết. Nhưng hôm nay ta không giết ngươi, vì ngươi đã khiêng Rương của CHÚA Hằng Hữu trước mặt Đa-vít cha ta, và vì ngươi đã chia sẻ những khổ cực cha ta đã gánh chịu.” Vậy Sa-lô-môn đuổi A-bi-a-tha đi, không cho ông làm tư tế trước mặt CHÚA nữa, để lời CHÚA đã phán tại Si-lô về gia đình của Tư Tế Hê-li được ứng nghiệm. Khi tin ấy đến tai Giô-áp –vì Giô-áp đã ủng hộ A-đô-ni-gia, mặc dù ông đã không ủng hộ Áp-sa-lôm– ông liền trốn đến Đền Tạm của CHÚA và nắm lấy sừng của bàn thờ. Người ta tâu với Vua Sa-lô-môn, “Giô-áp đã trốn đến Đền Tạm của CHÚA, và kìa ông ấy đang nắm lấy sừng bàn thờ.” Sa-lô-môn truyền cho Bê-na-gia con của Giê-hô-gia-đa, “Hãy đi và giết ông ấy.” Vậy Bê-na-gia đến Đền Tạm của CHÚA và nói với ông ấy, “Vua truyền rằng: Ông hãy ra khỏi nơi đó.” Nhưng Giô-áp đáp, “Không. Tôi sẽ chết ở đây.” Bê-na-gia tâu lại với vua, “Tôi đã nói với Giô-áp như thế đó, và ông ấy đã đáp lại như thế kia.” Vua truyền cho ông, “Hãy làm y như ông ấy đã nói. Hãy giết ông ấy và đem chôn ông ấy đi. Như thế ta và nhà cha ta sẽ được cất khỏi máu vô tội mà Giô-áp đã làm đổ ra vô cớ. CHÚA sẽ báo trả những hành động đẫm máu lại trên đầu ông ấy, bởi vì trong khi Đa-vít cha ta không hay biết, ông ấy đã bất thần tấn công và giết hai người ngay lành và tốt hơn ông ấy, đó là Áp-ne con của Ne, chỉ huy trưởng quân đội I-sơ-ra-ên, và A-ma-sa con của Giê-the, chỉ huy trưởng quân đội Giu-đa. Vậy máu của họ sẽ đổ lại trên đầu của Giô-áp và trên đầu của dòng dõi ông ấy mãi mãi; nhưng Đa-vít và dòng dõi của người, cùng nhà người, và ngôi nước người sẽ được bình an do CHÚA ban cho đến đời đời.” Vậy Bê-na-gia con của Giê-hô-gia-đa đi lên, đánh hạ Giô-áp, và giết ông ấy. Người ta chôn ông ấy tại nhà của ông, gần sa mạc. Vua lập Bê-na-gia con của Giê-hô-gia-đa làm chỉ huy trưởng quân đội thay cho Giô-áp, và vua cũng lập Tư Tế Xa-đốc thay thế chức vụ của A-bi-a-tha. Sau đó vua truyền cho Si-mê-i vào chầu và phán, “Hãy cất cho ngươi một cái nhà trong Giê-ru-sa-lem và ở đó. Chớ ra khỏi đó để đi đây đi đó. Vì ngươi khá biết rằng hễ ngày nào ngươi ra khỏi đó mà vượt qua khỏi Khe Kít-rôn, ngươi sẽ chết. Máu của ngươi sẽ đổ lại trên đầu ngươi.” Si-mê-i đáp với vua, “Lời của hoàng thượng thật là tốt. Chúa thượng của hạ thần đã truyền dạy thế nào, hạ thần sẽ làm y như thế.” Vậy Si-mê-i sống ở Giê-ru-sa-lem lâu ngày. Nhưng sau ba năm, hai đầy tớ của Si-mê-i bỏ trốn đến với Vua A-kích con của Ma-a-ca của xứ Gát. Người ta báo cho Si-mê-i, “Kìa, các đầy tớ của ông đang ở tại Gát.” Si-mê-i liền đứng dậy, thắng lừa, và đến Gát, gặp A-kích để tìm các đầy tớ của ông. Vậy Si-mê-i đến Gát và bắt các đầy tớ của ông về. Khi Vua Sa-lô-môn được tâu rằng Si-mê-i đã rời Giê-ru-sa-lem đi Gát và đã trở về, vua cho gọi Si-mê-i vào và nói với ông, “Có phải ta đã bắt ngươi thề trước mặt CHÚA và cảnh cáo ngươi rằng, ‘Ngày nào ngươi rời khỏi Giê-ru-sa-lem mà đi đây đi đó, ngươi sẽ chết’ chăng? Ngươi đã nói với ta rằng, ‘Lời của hoàng thượng nói thật là tốt. Tôi sẽ tuân theo.’ Thế tại sao ngươi không giữ lời ngươi đã thề trước mặt CHÚA và tuân theo lệnh ta đã truyền cho ngươi?” Vua lại nói tiếp với Si-mê-i, “Ngươi đã biết và lòng ngươi cũng đã quá rõ những việc ác ngươi đã làm đối với Đa-vít cha ta. Bây giờ CHÚA sẽ báo trả ngươi những việc ác ngươi đã làm. Nhưng Vua Sa-lô-môn sẽ được ban phước và ngôi của Đa-vít sẽ tồn tại cách vững bền trước mặt CHÚA đời đời.” Kế đó vua truyền lịnh cho Bê-na-gia con của Giê-hô-gia-đa; ông ấy đến đánh Si-mê-i, và Si-mê-i chết. Như vậy vương quốc được thiết lập vững vàng trong tay Sa-lô-môn.

I Các Vua 2:1-46 Kinh Thánh Tiếng Việt Bản Hiệu Đính 2010 (VIE2010)

Khi gần đến ngày qua đời, Đa-vít truyền dạy Sa-lô-môn, con trai mình rằng: “Cha sắp đi con đường mà mọi người trên thế gian phải đi. Vậy, con hãy mạnh mẽ và chứng tỏ mình là một bậc trượng phu! Hãy giữ điều Giê-hô-va Đức Chúa Trời muốn con giữ, tức là bước đi trong đường lối Ngài, gìn giữ những luật lệ, điều răn, mệnh lệnh, và sự dạy dỗ của Ngài như đã chép trong luật pháp của Môi-se, để con được thành công trong mọi việc con làm và mọi nơi con đi đến. Như thế, Đức Giê-hô-va sẽ làm ứng nghiệm lời Ngài đã phán về cha rằng: ‘Nếu con cháu của con cẩn thận về đường lối mình, hết lòng, hết linh hồn bước đi một cách trung thành trước mặt Ta thì con sẽ không hề thiếu người ngồi trên ngai Y-sơ-ra-ên.’ Con cũng biết những việc Giô-áp, con trai của Xê-ru-gia, đã làm cho cha, việc hắn đã làm cho hai tướng chỉ huy quân đội Y-sơ-ra-ên là Áp-ne con của Nê-rơ, và A-ma-sa con của Giê-the. Hắn đã giết hai vị tướng ấy, làm đổ máu trong thời bình như trong thời chiến, và khiến máu ấy dính nơi đai thắt lưng của hắn và giày hắn mang nơi chân. Vì vậy, hãy theo sự khôn ngoan của con mà đối xử, nhưng đừng để đầu bạc của hắn xuống âm phủ một cách bình an. Còn đối với các con của Bát-xi-lai, người Ga-la-át, con hãy cư xử nhân từ với họ. Hãy cho họ ăn đồng bàn với con, vì họ đã đứng bên cha lúc cha chạy trốn khỏi Áp-sa-lôm, anh con. Ngoài ra, còn có Si-mê-i, con của Ghê-ra người Bên-gia-min ở Ba-hu-rim, là kẻ đã lấy những lời độc ác mà nguyền rủa cha trong ngày cha đi đến Ma-ha-na-im. Nhưng vì hắn xuống đón cha tại Giô-đanh nên cha đã nhân danh Đức Giê-hô-va mà thề với hắn rằng: ‘Trẫm sẽ không giết ngươi bằng gươm.’ Tuy nhiên, con đừng để hắn khỏi bị trừng phạt, vì con là người khôn ngoan và biết phải đối xử với hắn thể nào. Con hãy làm cho đầu bạc của hắn vấy máu mà xuống âm phủ.” Đa-vít an giấc cùng các tổ phụ mình và được an táng trong thành Đa-vít. Thời gian Đa-vít trị vì trên Y-sơ-ra-ên là bốn mươi năm: bảy năm tại Hếp-rôn và ba mươi ba năm tại Giê-ru-sa-lem. Sa-lô-môn ngự trên ngai của cha mình là Đa-vít, và vương quốc của Sa-lô-môn thật vững chắc. Bấy giờ A-đô-ni-gia, con trai của bà Ha-ghít, đến gặp bà Bát Sê-ba, mẹ của vua Sa-lô-môn. Bà hỏi: “Ngươi đến có ý bình an chăng?” Ông đáp: “Vâng, bình an.” Rồi ông nói tiếp: “Tôi có việc muốn thưa với bà.” Bà đáp: “Hãy nói đi.” Ông nói: “Hẳn bà biết rằng vương quyền vốn thuộc về tôi, và toàn thể Y-sơ-ra-ên đều mong thấy tôi trị vì. Nhưng vương quyền ấy đã thuộc về em tôi, vì đó là ý muốn của Đức Giê-hô-va. Vậy bây giờ, tôi có một lời thỉnh cầu, mong bà không từ chối.” Bà đáp: “Hãy nói đi.” Ông liền nói: “Xin bà nói với vua Sa-lô-môn — vì vua chẳng từ chối điều gì với bà — xin vua ban cho tôi A-bi-sác, người Su-nem, làm vợ.” Bát Sê-ba đáp: “Được, ta sẽ nói với vua cho ngươi.” Vậy Bát Sê-ba đến gặp vua Sa-lô-môn để nói với vua giúp cho A-đô-ni-gia. Vua đứng dậy đón và cúi chào bà, rồi ngồi trên ngai mình. Vua truyền đặt một ngai nữa cho thái hậu để bà ngồi bên phải vua. Bà nói: “Mẹ có một việc nhỏ xin con, mong con đừng từ chối.” Vua đáp: “Thưa mẹ, xin mẹ cứ nói, vì con sẽ không từ chối mẹ đâu.” Bà tiếp: “Hãy ban A-bi-sác, người Su-nem, làm vợ A-đô-ni-gia, là anh con.” Nhưng vua Sa-lô-môn thưa với mẹ: “Sao mẹ lại xin A-bi-sác, người Su-nem, cho A-đô-ni-gia? Hãy xin vương quyền cho anh ấy luôn đi, vì anh ấy là anh của con mà! Cũng hãy xin luôn cho thầy tế lễ A-bia-tha và cho Giô-áp, con trai của Xê-ru-gia nữa!” Rồi vua Sa-lô-môn nhân danh Đức Giê-hô-va mà thề rằng: “Nguyện Đức Chúa Trời xử tôi một cách nặng nề nếu A-đô-ni-gia không mất mạng vì lời yêu cầu nầy! Bây giờ, tôi chỉ Đức Giê-hô-va hằng sống, Đấng đã làm cho tôi vững vàng, khiến tôi ngồi trên ngai của Đa-vít, cha tôi, và lập cho tôi một triều đại đúng như lời Ngài đã hứa, mà thề rằng: A-đô-ni-gia phải bị xử tử ngay hôm nay.” Vua Sa-lô-môn truyền lệnh cho Bê-na-gia, con trai của Giê-hô-gia-đa. Anh ta xông vào đánh và giết chết A-đô-ni-gia. Sau đó, vua truyền cho thầy tế lễ A-bia-tha: “Hãy lui về cánh đồng của ngươi ở A-na-tốt, vì ngươi đáng chết. Nhưng ngày nay trẫm không giết ngươi, vì ngươi có khiêng Hòm Giao Ước của Chúa là Đức Giê-hô-va, trước mặt Đa-vít, cha trẫm, và vì ngươi đã chia sẻ mọi nỗi gian lao với cha trẫm.” Như vậy, Sa-lô-môn đuổi A-bia-tha đi, không cho làm thầy tế lễ của Đức Giê-hô-va nữa, khiến cho lời của Đức Giê-hô-va đã phán về nhà Hê-li tại Si-lô được ứng nghiệm. Khi nghe tin nầy, Giô-áp liền trốn vào Lều Tạm của Đức Giê-hô-va và nắm các sừng bàn thờ, vì Giô-áp đã theo phe A-đô-ni-gia, dù ông không theo phe của Áp-sa-lôm. Người ta tâu với vua Sa-lô-môn rằng: “Giô-áp đã trốn vào Lều Tạm của Đức Giê-hô-va, và kìa, ông ấy đang đứng bên cạnh bàn thờ.” Sa-lô-môn liền sai Bê-na-gia, con của Giê-hô-gia-đa, và truyền rằng: “Hãy đi, đánh cho hắn chết.” Bê-na-gia đến Lều Tạm của Đức Giê-hô-va và nói với Giô-áp: “Vua truyền thế nầy: ‘Hãy đi ra!’” Nhưng Giô-áp trả lời: “Không, tôi sẽ chết tại đây.” Bê-na-gia về tâu lại với vua: “Giô-áp đã nói và trả lời như thế.” Vua bảo: “Hãy làm như hắn đã nói. Hãy giết hắn và đem chôn đi. Như vậy, ngươi sẽ cất khỏi trẫm và khỏi nhà cha trẫm huyết vô tội mà Giô-áp đã đổ ra vô cớ. Đức Giê-hô-va sẽ khiến máu hắn đổ lại trên đầu hắn, vì hắn đã xông vào hai người công chính và tốt hơn hắn, giết họ bằng gươm mà Đa-vít, cha trẫm, không hay biết gì cả; đó là Áp-ne, con của Nê-rơ, tướng chỉ huy quân đội Y-sơ-ra-ên, và A-ma-sa, con của Giê-the, tướng chỉ huy quân đội Giu-đa. Huyết của họ sẽ đổ lại trên đầu Giô-áp và trên đầu của dòng dõi hắn cho đến đời đời. Còn Đa-vít và dòng dõi người, triều đại và ngôi báu người sẽ nhờ Đức Giê-hô-va mà được bình an mãi mãi.” Vậy Bê-na-gia, con trai của Giê-hô-gia-đa, đi lên xông vào đánh Giô-áp và giết ông ta. Giô-áp được chôn tại đất nhà nơi hoang mạc. Vua lập Bê-na-gia, con trai của Giê-hô-gia-đa, làm chỉ huy trưởng quân đội thay cho Giô-áp, và lập Xa-đốc làm thầy tế lễ thay cho A-bia-tha. Sau đó, vua sai gọi Si-mê-i đến và bảo: “Hãy cất cho ngươi một cái nhà tại Giê-ru-sa-lem và ở đó, không được ra khỏi chỗ ấy để đi bất cứ nơi nào. Hãy biết rằng ngày nào ngươi ra khỏi đó và đi qua khe Xết-rôn thì ngươi chắc chắn sẽ chết. Máu ngươi sẽ đổ lại trên đầu ngươi.” Si-mê-i thưa với vua: “Lời bệ hạ nói phải lắm, bệ hạ là chúa tôi truyền dạy điều gì thì đầy tớ của bệ hạ sẽ làm điều đó.” Vậy Si-mê-i ở lâu ngày tại Giê-ru-sa-lem. Nhưng ba năm sau, có hai đầy tớ của Si-mê-i trốn đến nhà A-kích, con của Ma-a-ca, vua Gát. Người ta báo cho Si-mê-i rằng: “Kìa, hai đầy tớ của ông ở tại Gát.” Si-mê-i liền thắng lừa và đi đến Gát gặp A-kích để tìm hai đầy tớ của ông. Si-mê-i đi và đem các đầy tớ của ông từ Gát trở về. Người ta thuật cho Sa-lô-môn rằng Si-mê-i từ Giê-ru-sa-lem đã đến Gát rồi trở về. Vua sai gọi Si-mê-i đến và nói với ông: “Chẳng phải trẫm đã bắt ngươi chỉ Đức Giê-hô-va mà thề và bảo trước với ngươi: ‘Hãy biết rằng ngày nào ngươi ra khỏi đây và đi bất cứ nơi nào, thì ngươi chắc chắn sẽ chết’ sao? Và ngươi đã nói với trẫm rằng: ‘Lời bệ hạ nói phải lắm.’ Vậy, tại sao ngươi không giữ lời ngươi đã chỉ Đức Giê-hô-va mà thề, và mệnh lệnh trẫm đã truyền cho ngươi?” Vua lại nói với Si-mê-i: “Ngươi đã biết và lòng ngươi cũng quá rõ mọi việc ác mà ngươi đã làm cho Đa-vít, cha trẫm. Vậy nên Đức Giê-hô-va sẽ khiến việc ác của ngươi đổ lại trên đầu ngươi. Nhưng vua Sa-lô-môn sẽ được ban phước, và ngai của Đa-vít sẽ được lập vững bền trước mặt Đức Giê-hô-va đến đời đời.” Rồi vua truyền lệnh cho Bê-na-gia, con trai của Giê-hô-gia-đa, đi đánh và giết chết Si-mê-i. Như vậy, vương quốc được vững bền trong tay Sa-lô-môn.