Kết quả tìm kiếm cho: rán, chiên
Thi Thiên 78:70 (VIE2010)
Ngài cũng chọn Đa-vít làm đầy tớ Ngài, Bắt ông từ các chuồng chiên;
Giăng 10:1 (VIE2010)
“Thật, Ta bảo thật các ngươi, người nào không do cửa mà vào chuồng chiên, lại trèo vào bằng lối khác thì người ấy là kẻ trộm cướp.
Các Quan Xét 5:16 (VIE2010)
Tại sao anh nán lại bên chuồng chiên, Phải chăng để nghe tiếng sáo gọi đàn? Trong con cháu Ru-bên, Có kẻ do dự trong lòng!
Giăng 10:2 (VIE2010)
Nhưng ai do cửa mà vào là người chăn chiên.
Giê-rê-mi 25:37 (VIE2010)
Những đồng cỏ yên bình đã trở nên hoang vắng Vì cơn thịnh nộ của Đức Giê-hô-va.
Sô-phô-ni 2:6 (VIE2010)
Miền duyên hải sẽ trở thành đồng cỏ, Để những người chăn làm bãi thả chiên Và làm chuồng cho bầy chiên.
Thi Thiên 68:13 (VIE2010)
Dù các ngươi nằm nghỉ giữa chuồng chiên, Cũng được cánh bồ câu dát bạc Và bộ lông bằng vàng ròng.
Gióp 5:24 (VIE2010)
Anh sẽ thấy trại mình được an ổn; Kiểm lại bầy anh chẳng thấy thiếu mất chi.
Ha-ba-cúc 3:17 (VIE2010)
Cho dù cây vả sẽ không nứt lộc nữa, Vườn nho ngưng ra trái, Cây ô-liu bị thất mùa, Ruộng đồng không sinh sản lương thực, Bầy chiên bị dứt khỏi ràn, Và không có bầy bò trong chuồng nữa,
Thi Thiên 119:176 (VIE2010)
Con lầm đường như chiên lạc lối; xin Chúa tìm kiếm đầy tớ Ngài, Vì con không quên điều răn của Ngài.
Ma-thi-ơ 10:16 (VIE2010)
Nầy, Ta sai các con đi như chiên giữa bầy muông sói. Vậy hãy khôn khéo như rắn, đơn sơ như chim bồ câu.
Giê-rê-mi 23:3 (VIE2010)
Chính Ta sẽ tập hợp những con sót lại của bầy từ các nước mà Ta đã đuổi chúng đến. Ta sẽ đem chúng trở về đồng cỏ của chúng; chúng sẽ sinh sôi nẩy nở thật nhiều.
Sáng Thế 29:4 (VIE2010)
Gia-cốp hỏi thăm mấy người chăn chiên: “Các anh ơi! Các anh từ đâu đến?” Họ đáp: “Chúng tôi từ Cha-ran đến.”
I Sa-mu-ên 24:3 (VIE2010)
Sau-lơ đem ba nghìn quân tuyển chọn trong toàn dân Y-sơ-ra-ên, kéo ra tìm bắt Đa-vít và các thuộc hạ trên dãy núi đá Dê Rừng.
Dân Số 7:77 (VIE2010)
và hai con bò đực, năm con chiên đực, năm con dê đực và năm con chiên con một tuổi dùng làm tế lễ bình an. Đó là lễ vật của Pha-ghi-ên, con trai Óc-ran.
Giê-rê-mi 50:6 (VIE2010)
Dân Ta vốn là bầy chiên lạc; những kẻ chăn làm cho chúng lạc đường để chúng bơ vơ trên các núi, lang thang hết núi đến đồi, quên cả ràn của mình.
Khải Huyền 12:17 (VIE2010)
Con rồng nổi giận với người phụ nữ và đi giao chiến với phần còn lại của dòng dõi nàng, là những người vâng giữ các điều răn của Đức Chúa Trời và có lời chứng của Đức Chúa Jêsus.
Ê-sai 65:25 (VIE2010)
Muông sói và chiên con sẽ ăn chung với nhau, Sư tử sẽ ăn rơm như bò, Còn rắn thì ăn bụi đất. Sẽ chẳng có ai làm tổn hại hay hủy phá Trong khắp núi thánh của Ta.” Đức Giê-hô-va phán vậy.
Giê-rê-mi 43:12 (VIE2010)
Ta sẽ phóng hỏa đốt các đền miếu của các thần Ai Cập; Nê-bu-cát-nết-sa sẽ đốt hoặc mang chúng đi. Vua ấy cướp sạch đất Ai Cập như người chăn chiên bắt sạch rận trong áo mình, rồi ra đi cách bình an.
I Giăng 5:3 (VIE2010)
Yêu Đức Chúa Trời tức là chúng ta vâng giữ các điều răn của Ngài; điều răn của Ngài không phải là nặng nề.
I Giăng 5:4 (VIE2010)
Vì ai sinh bởi Đức Chúa Trời thì chiến thắng thế gian; điều làm cho chúng ta chiến thắng thế gian chính là đức tin của chúng ta.
Thi Thiên 140:2 (VIE2010)
Là kẻ mưu toan điều ác trong lòng, Và suốt ngày gây chiến.
Thi Thiên 140:3 (VIE2010)
Chúng mài nhọn lưỡi mình như lưỡi rắn, Môi chúng có nọc độc của rắn hổ mang. (Sê-la)
Khải Huyền 12:16 (VIE2010)
Nhưng đất tiếp cứu người phụ nữ bằng cách há miệng ra và nuốt dòng sông mà con rồng đã phun ra từ miệng nó.
Khải Huyền 12:8 (VIE2010)
Nhưng chúng không thắng được, và không còn tìm thấy chỗ của chúng ở trên trời nữa.