Kết quả tìm kiếm cho: bốn trục lăng (động cơ)
Giô-suê 15:46 (VIE2010)
từ Éc-rôn đến biển, tất cả các thành ở gần Ách-đốt cùng các làng mạc của chúng.
Sô-phô-ni 2:6 (VIE2010)
Miền duyên hải sẽ trở thành đồng cỏ, Để những người chăn làm bãi thả chiên Và làm chuồng cho bầy chiên.
I Sử Ký 4:32 (VIE2010)
Họ cũng có năm thị trấn là: Ê-tam, A-in, Rim-môn, Tô-ken, và A-san,
Sáng Thế 23:17 (VIE2010)
Vậy, cánh đồng của Ép-rôn tại Mặc-bê-la, phía đông Mam-rê, gồm cánh đồng có hang đá và tất cả cây cối trong cánh đồng,
Ê-xê-chi-ên 1:15 (VIE2010)
Khi tôi nhìn các sinh vật ấy, tôi thấy trên đất có một bánh xe ở bên cạnh các sinh vật ấy, mỗi sinh vật bốn mặt đều có một bánh xe.
Xa-cha-ri 11:3 (VIE2010)
Hãy nghe, có tiếng khóc than của những kẻ chăn chiên! Vì vẻ huy hoàng của chúng đã bị tàn phá. Có tiếng gầm thét của những sư tử tơ! Vì niềm kiêu hãnh của Giô-đanh đã bị tiêu tan.
I Sử Ký 27:5 (VIE2010)
Chỉ huy trưởng binh đoàn thứ ba phụ trách tháng ba là Bê-na-gia, con của thầy tế lễ Giê-hô-gia-đa. Binh đoàn của ông có hai mươi bốn nghìn quân.
Gióp 18:17 (VIE2010)
Trong xứ kỷ niệm nó sẽ không còn, Ngoài xứ tên tuổi nó chẳng được ai nhắc đến.
A-mốt 1:2 (VIE2010)
Người nói: “Từ Si-ôn, Đức Giê-hô-va gầm thét. Từ Giê-ru-sa-lem, Ngài làm cho vang tiếng mình ra. Những đồng cỏ của kẻ chăn chiên sẽ thảm sầu, Đỉnh núi Cạt-mên sẽ khô héo.”
Giô-suê 15:48 (VIE2010)
Trong miền núi có: Sa-mia, Giạt-thia, Sô-cô,
I Sử Ký 27:9 (VIE2010)
Chỉ huy trưởng binh đoàn thứ sáu phụ trách tháng sáu là Y-ra, con của Y-ke ở Thê-cô-a. Binh đoàn của ông có hai mươi bốn nghìn quân.
Ê-xê-chi-ên 40:29 (VIE2010)
Các phòng, các trụ và tiền sảnh của nó có cùng một kích thước với nhau. Cổng và các tiền sảnh đều có những cửa sổ chung quanh. Các tiền sảnh có chiều dài là hai mươi lăm mét và chiều ngang là mười hai mét rưỡi.
Thi Thiên 102:1 (VIE2010)
Lạy Đức Giê-hô-va, xin nghe lời cầu nguyện con, Nguyện tiếng kêu cứu của con thấu đến Ngài.
Gióp 39:8 (VIE2010)
Ai để cho lừa rừng tự do chạy nhảy? Ai cởi trói cho chú lừa kia tung tăng?
Giô-suê 21:30 (VIE2010)
Người ta cũng lấy các thành thuộc bộ tộc A-se, đó là Mi-sê-anh và các đồng cỏ chung quanh; Áp-đôn và các đồng cỏ chung quanh;
Giô-suê 21:36 (VIE2010)
Người ta cũng lấy từ bộ tộc Ru-bên các thành, đó là thành Bết-se và các đồng cỏ chung quanh; thành Giát-sa và các đồng cỏ chung quanh;
I Sử Ký 6:80 (VIE2010)
Từ bộ tộc Gát, họ nhận được Ra-mốt ở đất Ga-la-át và các đồng cỏ chung quanh, Ma-ha-na-im và các đồng cỏ chung quanh,
Ê-xê-chi-ên 40:21 (VIE2010)
Hai bên cổng, mỗi bên có ba phòng; các trụ và tiền sảnh cũng đồng kích thước với cổng thứ nhất: hai mươi lăm mét chiều dài và mười hai mét rưỡi chiều ngang.
I Sử Ký 4:40 (VIE2010)
Họ tìm được đồng cỏ xanh tươi, đất đai rộng rãi, yên tịnh và an toàn; trước kia dòng dõi Cham sinh sống ở đó.
Giô-suê 21:23 (VIE2010)
Người ta lấy các thành từ bộ tộc Đan mà cấp cho họ: đó là thành Ên-the-kê và các đồng cỏ chung quanh; thành Ghi-bê-thôn và các đồng cỏ chung quanh;
Châm Ngôn 1:4 (VIE2010)
Giúp cho người đơn sơ trở nên khôn khéo, Người trẻ tuổi thêm tri thức và thận trọng.
Ê-xê-chi-ên 40:24 (VIE2010)
Sau đó, người ấy dẫn tôi đi về phía nam. Nầy, tại đó có cổng phía nam. Người ấy đo các trụ và các tiền sảnh cũng đồng kích thước với nhau.
I Sử Ký 27:1 (VIE2010)
Quân Y-sơ-ra-ên được thống kê gồm các trưởng gia tộc, các chỉ huy trưởng nghìn quân và trăm quân, các quan chức phục vụ vua trong tất cả công tác có liên quan đến các binh đoàn. Các binh đoàn luân phiên phục vụ mỗi năm một tháng. Mỗi binh đoàn có hai mươi bốn nghìn quân.
Giô-suê 21:42 (VIE2010)
Mỗi thành ấy đều có các đồng cỏ chung quanh và tất cả thành ấy đều giống như vậy.
Giô-ên 1:18 (VIE2010)
Kìa, súc vật rên rỉ thảm thương! Bầy bò thơ thẩn bối rối! Vì chúng không còn đồng cỏ nữa. Cả bầy chiên cũng khốn khổ.