Biểu trưng YouVersion
Biểu tượng Tìm kiếm

Nê-hê-mi 7:1-73

Nê-hê-mi 7:1-73 Kinh Thánh Tiếng Việt 1925 (VIE1925)

Khi vách-thành đã xây xong, và tôi đã tra các cánh cửa, lập những người giữ cửa, kẻ ca-hát, và người Lê-vi trong chức việc của họ, thì tôi giao phó việc cai-trị Giê-ru-sa-lem cho Ha-na-ni, em tôi, và cho Ha-na-nia, quan tể-cung; vì là một người trung-tín và kính-sợ Đức Chúa Trời hơn nhiều kẻ khác. Tôi dặn chúng rằng: Chớ mở các cửa Giê-ru-sa-lem trước khi mặt trời nắng-nóng; người ta phải đóng cánh cửa, và gài then lại trong lúc kẻ giữ cửa còn ở tại đó; lại phải đặt người trong dân Giê-ru-sa-lem thay phiên mà canh-giữ, mỗi người đứng canh nơi đối ngang nhà mình. Vả, thành thì rộng-rãi lớn-lao, còn dân-sự ở trong nó lại ít, và nhà mới thì chưa có cất. Đức Chúa Trời tôi có cảm-động lòng tôi chiêu-tập những người tước-vị, các quan-trưởng, và dân-sự, đặng đem chúng vào sổ từng gia-phổ. Tôi có tìm đặng một cuốn bộ gia-phổ của những người trở lên lần đầu, và trong đó tôi thấy có ghi rằng: Nầy là các người tỉnh Giu-đa từ nơi làm phu-tù được trở lên, tức những kẻ thuộc trong bọn bị Nê-bu-cát-nết-sa bắt dẫn tù; chúng trở lại Giê-ru-sa-lem và xứ Giu-đa, ai nấy đều về bổn-thành mình; chúng trở về với Xô-rô-ba-bên, Giê-sua, Nê-hê-mi, A-xa-ria, Ra-a-mia, Na-ha-ma-ni, Mạc-đô-chê, Binh-san, Mích-bê-rết, Biết-vai, Nê-hun, và Ba-a-na. Nầy là số tu-bộ những người nam của dân Y-sơ-ra-ên: Về con-cháu Pha-rốt, hai ngàn một trăm bảy mươi hai người; về con-cháu Sê-pha-tia, ba trăm bảy mươi hai người. Về con-cháu A-ra, sáu trăm năm mươi hai người. Về con-cháu Pha-hát-Mô-áp, con-cháu của Giê-sua và Giô-áp, có hai ngàn tám trăm mười tám người. Về con-cháu Ê-lam, một ngàn hai trăm năm mươi bốn người. Về con-cháu Xát-tu, tám trăm bốn mươi lăm người. Về con-cháu Xác-cai, bảy trăm sáu mươi người. Về con-cháu Bin-nui, sáu trăm bốn mươi tám người. Về con-cháu Bê-bai, sáu trăm hai mươi tám người. Về con-cháu A-gát, hai ngàn ba trăm hai mươi hai người. Về con-cháu A-đô-ni-cam, sáu trăm sáu mươi bảy người. Về con-cháu Biết-vai, hai ngàn sáu mươi bảy người. Về con-cháu A-đin, sáu trăm năm mươi lăm người. Con-cháu A-te, về dòng-dõi Ê-xê-chia, có chín mươi tám người. Về con-cháu Ha-sum, ba trăm hai mươi tám người. Về con-cháu Bết-sai, ba trăm hai mươi bốn người. Về con-cháu Ha-ríp, một trăm mười hai người. Về con-cháu Ga-ba-ôn, chín mươi lăm người. Về những người Bết-lê-hem và Nê-tô-pha, một trăm tám mươi tám người. Về những người A-na-tốt, một trăm hai mươi tám người. Về những người Bết-A-ma-vết, bốn mươi hai người. Về những người Ki-ri-át-Giê-a-rim, người Kê-phi-ra, và người Bê-ê-rốt, bảy trăm bốn mươi ba người. Về những người Ra-ma và Ghê-ba, sáu trăm hai mươi mốt người. Về những người Mích-ma, một trăm hai mươi hai người. Về những người Bê-tên và A-hi, một trăm hai mươi ba người. Về những người Nê-bô khác, năm mươi hai người. Về con-cháu Ê-lam khác, một ngàn hai trăm năm mươi bốn người. Về con-cháu Ha-rim, ba trăm hai mươi người. Về con-cháu Giê-ri-cô, ba trăm bốn mươi lăm người. Về con-cháu của Lô-đơ, của Ha-đít, và của Ô-nô, bảy trăm hai mươi mốt người. Về con-cháu Sê-na, ba ngàn chín trăm ba mươi người. Những thầy tế-lễ: Về con-cháu Giê-đa-gia, nhà Giê-sua, chín trăm bảy mươi ba người. Về con-cháu Y-mê, một ngàn năm mươi hai người. Về con-cháu Pha-su-rơ, một ngàn hai trăm bốn mươi bảy người. Về con-cháu Ha-rim, một ngàn mười bảy người. Người Lê-vi: Con-cháu của Giê-sua và của Cát-mi-ên, về dòng-dõi Hô-đê-va, bảy mươi bốn người. Người ca-hát: Về con-cháu A-sáp, một trăm bốn mươi tám người. Kẻ giữ cửa: Về con-cháu Sa-lum, con-cháu A-te, con-cháu Tanh-môn, con-cháu A-cúp, con-cháu Ha-ti-ta, và con-cháu Sô-bai, một trăm ba mươi tám người. Người Nê-thi-nim: Con-cháu Xi-ha, con-cháu Ha-su-pha, con-cháu Ta-ba-ốt, con-cháu Kê-rốt, con-cháu Sia, con-cháu Pha-đôn, con-cháu Lê-ba-na, con-cháu Ha-ga-ba, con-cháu Sanh-mai, con-cháu Ha-nan, con-cháu Ghi-đên, con-cháu Ga-ha; con-cháu Rê-a-gia, con-cháu Rê-xin, con-cháu Nê-cô-đa, con-cháu Ga-xam, con-cháu U-xa, con-cháu Pha-sê-a, con-cháu Bê-sai, con-cháu Mê-u-nim, con-cháu Nê-phi-sê-sim, con-cháu Bác-búc, con-cháu Ha-cu-pha, con-cháu Ha-rua, con-cháu Bát-lít, con-cháu Mê-hi-đa, con-cháu Hạt-sa, con-cháu Bạt-cô, con-cháu Si-sê-ra, con-cháu Tha-mác, con-cháu Nê-xia, con-cháu Ha-ti-pha. Dòng-dõi các đầy-tớ của Sa-lô-môn: Con-cháu Sô-tai, con-cháu Sô-phê-rết, con-cháu Phê-ru-đa, con-cháu Gia-a-la, con-cháu Đạt-côn, con-cháu Ghi-đên, con-cháu Sê-pha-tia, con-cháu Hát-tinh, con-cháu Phô-kê-rết-Hát-xê-ba-im, con-cháu A-môn. Tổng cộng các người Nê-thi-nim và con-cháu các đầy-tớ của Sa-lô-môn, là ba trăm chín mươi hai người. Nầy là những người ở từ Tên-Mê-la, Tên-Hạt-sa, Kê-rúp, A-đôn, và từ Y-mê mà đi lên; nhưng chúng nó không thể chỉ ra nhà của tổ-phụ mình và gốc-gác của họ, hoặc thuộc về Y-sơ-ra-ên hay chăng: con-cháu Đê-la-gia, con-cháu Tô-bi-gia, và con-cháu Nê-cô-đa, đều sáu trăm bốn mươi hai người. Về những thầy tế-lễ: Con-cháu Ha-ba-gia, con-cháu Ha-cốt, con-cháu Bạt-xi-lai, là người lấy vợ trong vòng con gái của Bạt-xi-lai, người Ga-la-át, và được gọi bằng tên của họ. Các người ấy tìm-kiếm gia-phổ mình, nhưng không thấy, bèn bị trừ ra chức tế-lễ, kể cho là ô-uế. Quan tổng-trấn cấm chúng ăn những vật chí-thánh cho đến chừng có một thầy tế-lễ dấy lên dùng U-rim và Thu-mim mà cầu-hỏi Đức Chúa Trời. Cả hội-chúng hiệp-lại được bốn vạn hai ngàn ba trăm sáu mươi người, không kể những tôi trai tớ gái của dân, số được bảy ngàn ba trăm ba mươi bảy người; cũng có hai trăm bốn mươi lăm kẻ ca-hát, nam và nữ. Chúng có bảy trăm ba mươi sáu con ngựa, hai trăm bốn mươi lăm con la, bốn trăm ba mươi lăm con lạc-đà, và sáu ngàn bảy trăm hai mươi con lừa. Có mấy trưởng-tộc đem của cung-tiến đặng giúp làm công-việc. Quan tổng-trấn dâng cho kho một ngàn đa-riếc vàng, năm mươi cái chậu, và năm trăm ba mươi cái áo thầy tế-lễ. Có mấy trưởng-tộc dâng vào kho tạo-tác hai vạn đa-riếc vàng, và hai ngàn hai trăm min bạc. Còn vật dân-sự khác dâng, được hai vạn đa-riếc vàng, hai ngàn min bạc, và sáu mươi bảy cái áo thầy tế-lễ. Ấy vậy, những thầy tế-lễ, người Lê-vi, kẻ giữ cửa, kẻ ca-hát, mấy người trong dân, và người Nê-thi-nim, cùng cả Y-sơ-ra-ên, đều ở trong các thành của mình. Khi tháng bảy đến, thì dân Y-sơ-ra-ên đều ở trong các thành của mình.

Nê-hê-mi 7:1-73 Kinh Thánh Bản Dịch Mới (NVB)

Sau khi tường thành đã xây xong, tôi tra các cánh cổng. Những người gác cổng, ca nhạc sĩ, và người Lê-vi nhận trách nhiệm canh gác. Tôi giao cho Ha-na-nia, em tôi, và Ha-na-ni-ya, sĩ quan chỉ huy thành lũy, nhiệm vụ cai trị Giê-ru-sa-lem. Ha-na-ni-ya là người đáng tin cậy và kính sợ Đức Chúa Trời hơn nhiều người khác. Tôi dặn họ: “Anh em không nên để cổng thành Giê-ru-sa-lem mở trong giờ nắng gắt, và trong khi còn phiên trực, người trực phải đóng cổng cài then cho chắc. Anh em cũng nên cắt phiên gác cho dân cư Giê-ru-sa-lem, người này nơi vọng gác, kẻ kia nơi đối ngang nhà mình.” Thành phố rộng lớn, nhưng dân cư thưa thớt, và nhà cửa xây lại chưa đủ vào đâu. Đức Chúa Trời giục lòng tôi triệu tập các nhà quyền quý, các viên chức, và thường dân để đăng ký hộ tịch. Tôi tìm được gia phả của những người trở về đợt đầu, có ghi như sau: Đây là những người trong tỉnh đã trở về từ giữa vòng những người phu tù mà Nê-bu-cát-nết-sa, vua Ba-by-lôn, đã lưu đầy. Họ trở về Giê-ru-sa-lem và Giu-đa, ai nấy về thành mình. Họ cũng về với Xô-rô-ba-bên, Giê-sua, Nê-hê-mi, A-xa-ria, Ra-a-mia, Na-ha-ma-ni, Mạc-đô-cai, Binh-san, Mích-bê-rết. Biệt-vai, Nê-hum, và Ba-a-na. Tổng số những người nam trong dân Y-sơ-ra-ên: Con cháu Pha-rốt, 2.172 người, Con cháu Sê-pha-tia, 372 người, Con cháu A-ra, 652 người, Con cháu Pha-hát Mô-áp, nghĩa là con cháu Giê-sua và Giô-áp, 2.818 người, Con cháu Ê-lam, 1.254 người, Con cháu Xát-tu, 845 người, Con cháu Xác-cai, 760 người, Con cháu Bin-nui, 648 người, Con cháu Bê-bai, 628 người, Con cháu A-gát, 2.322 người, Con cháu A-đô-ni-cam, 667 người, Con cháu Biệt-vai, 2.067 người, Con cháu A-đin, 655 người, Con cháu A-te, nghĩa là con cháu Ê-xê-chia, 98 người, Con cháu Ha-sum, 328 người, Con cháu Bết-sai, 324 người, Con cháu Ha-ríp, 112 người, Con cháu Ghi-bê-ôn, 95 người, Người Bết-lê-hem và Nê-tô-pha, 188 người, Người A-na-tốt, 128 người, Người Bết-Ách-ma-vết, 42 người, Người Ki-ri-át Giê-a-rim, Kê-phi-ra, và Bê-ê-rốt, 743 người, Người Ra-ma và Ghê-ba, 621 người, Người Mích-ma, 122 người, Người Bê-tên và A-hi, 123 người, Người Nê-bô khác, 52 người, Con cháu Ê-lam khác, 1.254 người, Con cháu Ha-rim, 320 người, Người Giê-ri-cô, 345 người, Người Lô-đơ, Ha-đi, và Ô-nô, 721 người, Con cháu Sê-na, 3.930 người, Thầy tế lễ: Con cháu Giê-đa-gia, thuộc gia tộc Giê-sua, 973 người, Con cháu Y-mê, 1.052 người, Con cháu Phát-hua, 1.247 người, Con cháu Ha-rim, 1.017 người, Người Lê-vi: con cháu Giê-sua, thuộc họ Cát-mi-ên, thuộc con cháu Hô-dê-va, 74 người, Ca nhạc sĩ: con cháu A-sáp, 148 người, Người gác cổng: con cháu Sa-lum, con cháu A-te, con cháu Tanh-môn, con cháu A-cúp, con cháu Ha-ti-ta, con cháu Sô-bai, 138 người, Người phục dịch đền thờ: con cháu Xi-ha, con cháu Ha-su-pha, con cháu Ta-ba-ốt, con cháu Kê-rốt, con cháu Sia, con cháu Pha-đôn, con cháu Lê-ba-na, con cháu Ha-ga-ba, con cháu Sanh-mai, con cháu Ha-nan, con cháu Ghi-đên, con cháu Ga-ha-rơ, con cháu Rê-a-gia, con cháu Rê-xin, con cháu Nê-cô-đa, con cháu Ga-xam, con cháu U-xa, con cháu Pha-sê-a, con cháu Bê-sai, con cháu Mê-u-nim, con cháu Nê-phu-sê-sim, con cháu Bạc-búc, con cháu Ha-khu-pha, con cháu Hát-bua, con cháu Bát-lit, con cháu Mê-hi-da, con cháu Hát-sa, con cháu Bạt-cốt, con cháu Si-sê-ra, con cháu Tha-mác, con cháu Nê-xia, con cháu Ha-ti-pha. Con cháu những người nô lệ từ đời vua Sa-lô-môn: con cháu Sô-tai, con cháu Sô-phê-rết, con cháu Phê-ri-da, con cháu Gia-a-la, con cháu Đạt-côn, con cháu Ghi-đên, con cháu Sê-pha-tia, con cháu Hát-tinh, con cháu Bô-kê-rết Ha-xê-ba-im, con cháu A-môn. Tổng cộng những người phục dịch đền thờ và con cháu những người nô lệ từ đời vua Sa-lô-môn là 392 người. Những người sau đây trở về từ Tên Mê-la, Tên Hát-sa, Kê-rúp, A-đôn và Y-mê, nhưng họ không thể chứng minh qua gia tộc hoặc dòng dõi rằng họ thuộc về dân Y-sơ-ra-ên: Con cháu Đê-la-gia, con cháu Tô-bi-gia, con cháu Nê-cô-đa, tổng cộng 642 người. Về phía những thầy tế lễ: con cháu Hô-bai-gia, con cháu Ha-cốt, con cháu Bát-xi-lai, (ông này cưới một trong những cô con gái của Bát-xi-lai, người Ga-la-át, nên người ta gọi ông theo tên cha vợ). Những người này tìm tên mình trong gia phả, nhưng không tìm được, nên bị kể là ô uế và truất khỏi chức tế lễ. Quan tổng trấn cấm họ dùng thức ăn chí thánh cho đến khi nào có thầy tế lễ dùng U-rim và Thu-mim cầu hỏi Đức Chúa Trời. Toàn thể hội chúng tổng cộng là 42.360 người. Ngoài ra, có 7.337 nam nữ gia nhân và 245 nam nữ ca sĩ, 435 con lạc đà, và 6.720 con lừa. Một số các trưởng tộc dâng vào quỹ xây cất. Quan tổng trấn dâng vào quỹ 1.000 đa-riếc 50 cái chậu, và 530 bộ lễ phục cho các thầy tế lễ. Một số các trưởng tộc dâng vào quỹ xây cất 170kg vàng, và 1.2 tấn bạc. Dân chúng còn lại dâng 170kg vàng, 1 tấn bạc, và 67 bộ lễ phục cho các thầy tế lễ. Các thầy tế lễ, những người Lê-vi, người gác cổng, ca nhạc sĩ, một số thường dân, những người phục dịch đền thờ, và toàn thể dân Y-sơ-ra-ên định cư trong thành mình. Khi tháng bảy đến, dân Y-sơ-ra-ên đều ở trong thành mình.

Nê-hê-mi 7:1-73 Kinh Thánh Hiện Đại (KTHD)

Sau khi tường thành đã xây xong, các cánh cổng được lắp vào, và những người gác cổng, ca sĩ, người Lê-vi được cắt cử vào nhiệm vụ, tôi giao cho Ha-na-ni là em tôi, và Ha-na-nia, là quan trấn thủ thành lũy lo việc cai trị Giê-ru-sa-lem. Ha-na-nia là một người trung thực và kính sợ Đức Chúa Trời hơn nhiều người khác. Tôi dặn họ chỉ mở cổng thành khi mặt trời đã lên cao, đóng cổng cài then khi lính còn đang còn đứng gác. Phải chọn người dân Giê-ru-sa-lem làm lính gác, cắt đặt phiên gác cho mỗi người, và cho ai nấy được gác đoạn tường thành gần nhà mình. Vào thời gian đó, thành thì rộng lớn, dân cư ít ỏi, nhà cửa thưa thớt. Đức Chúa Trời giục lòng tôi triệu tập các nhà lãnh đạo và toàn dân lại để đăng bộ. Và tôi cũng tìm được một sách chép gia phả của những người trở về Giu-đa đợt thứ nhất. Sách ấy có ghi: Đây là tên những người trở về Giê-ru-sa-lem và Giu-đa, sau thời gian bị Nê-bu-cát-nết-sa, vua Ba-by-lôn, bắt đi lưu đày: Các nhà lãnh đạo gồm có: Xô-rô-ba-bên, Giê-sua, Nê-hê-mi, A-xa-ria, Ra-a-nia, Na-ha-ma-ni, Mạc-đô-chê, Binh-san, Mích-bê-rết, Biết-vai, Nê-hum, và Ba-a-na. Những người Ít-ra-ên hồi hương gồm có: Họ Pha-rốt 2.172 người. Họ Sê-pha-ti-gia 372 người. Họ A-ra 652 người. Họ Pha-hát Mô-áp (con cháu của Giê-sua và Giô-áp) 2.818 người. Họ Ê-lam 1.254 người. Họ Xát-tu 845 người. Họ Xác-cai 760 người. Họ Bin-nui 648 người. Họ Bê-bai 628 người. Họ A-gát 2.322 người. Họ A-đô-ni-cam 667 người. Họ Biết-vai 2.067 người. Họ A-đin 655 người. Họ A-te (con cháu Ê-xê-chia) 98 người. Họ Ha-sum 328 người. Họ Bết-sai 324 người. Họ Ha-ríp 112 người. Họ Ghi-ba 95 người. Người Bết-lê-hem và Nê-tô-pha 188 người. Người A-na-tốt 128 người. Người Bết-Ách-ma-vết 42 người. Người Ki-ri-át Giê-a-rim, người Kê-phi-ra và người Bê-ê-rốt 743 người. Người Ra-ma và Ghê-ba 621 người. Người Mích-ma 122 người. Người Bê-tên và A-hi 123 người. Người Nê-bô 52 người. Công dân Ê-lam 1.254 người. Công dân Ha-rim 320 người. Công dân Giê-ri-cô 345 người. Công dân Lô-đơ, Ha-đi và Ô-nô 721 người. Công dân Sê-na 3.930 người. Các thầy tế lễ gồm có: họ Giê-đa-gia thuộc nhà Giê-sua 973 người. Họ Y-mê 1.052 người. Họ Pha-su-rơ 1.247 người. Họ Ha-rim 1.017 người. Người Lê-vi gồm có: Họ Giê-sua và Cát-mi-ên (con cháu Hô-đê-va) 74 người. Các ca sĩ thuộc họ A-sáp 148 người. Những người gác cổng thuộc họ Sa-lum, họ A-te, họ Thanh-môn, họ A-cúp, họ Ha-ti-ta, và họ Sô-bai 138 người. Những người phục dịch Đền Thờ gồm có: Họ Xi-ha, họ Ha-su-pha, họ Ta-ba-ốt, họ Kê-rốt, họ Sia, họ Ba-đôn, họ Lê-ba-na, họ Ha-ga-ba, họ Sam-lai, họ Ha-nan, họ Ghi-đên, họ Ga-ha, họ Rê-a-gia, họ Rê-xin, họ Nê-cô-đa, họ Ga-xam, họ U-xa, họ Pha-sê-a, họ Bê-sai, họ Mê-u-nim, họ Nê-phi-sê-sim, họ Bác-búc, họ Ha-cu-pha, họ Ha-rua, họ Bát-lít, họ Mê-hi-đa, họ Hạc-sa, họ Bạt-cô, họ Si-sê-ra, họ Tha-mác, họ Nê-xia, và họ Ha-ti-pha. Con cháu các cựu thần của Sa-lô-môn gồm có: Họ Sô-tai, họ Sô-phê-rết, họ Phi-ri-đa, họ Gia-a-la, họ Đạt-côn, họ Ghi-đên, họ Sê-pha-tia, họ Hát-tinh, họ Bô-kê-rết Hát-xê-ba-im, và họ A-môn. Tính chung những người phục dịch Đền Thờ và con cháu cựu thần của Sa-lô-môn là 392 người. Có một số người từ Tên Mê-la, Tên Hạt-sa, Kê-rúp, A-đôn, và Y-mê trở về Giê-ru-sa-lem, nhưng không còn gia phả hay bằng cớ về căn nguyên tông tộc để chứng minh mình là người Ít-ra-ên. Những người này gồm có: Họ Đê-la-gia, họ Tô-bia, và họ Nê-cô-đa, tổng cộng 642 người. Con cháu của các thầy tế lễ trong ba họ Ha-ba-gia, Ha-cốt, và Bát-xi-lai. (Ông này cưới con gái của Bát-xi-lai người Ga-la-át, nên người ta gọi ông theo tên cha vợ.) Những người này cũng không tìm được gia phả, nên bị ngưng chức tế lễ và không được hưởng phần ăn thánh, vì vị tổng trấn muốn chờ đến khi có một thầy tế lễ có thể dùng U-rim và Thu-mim để cầu hỏi Đức Chúa Trời. Tổng số các nhóm kể trên lên đến 42.360 người. Ngoài ra, có 7.337 gia nhân, và 245 ca sĩ, cả nam lẫn nữ. Họ đem theo 736 con ngựa, 245 con la, 435 con lạc đà, và 6.720 con lừa. Các nhà lãnh đạo đã hiến dâng của cải vào quỹ đài thọ công tác. Tổng trấn dâng 8,6 ký vàng, 50 cái chậu, và 530 bộ lễ phục cho các thầy tế lễ. Một số trưởng tộc dâng 170 ký vàng, 1.300 ký bạc. Dân đóng góp 170 ký vàng, 1.200 ký bạc, và 67 bộ lễ phục cho các thầy tế lễ. Vậy, các thầy tế lễ, người Lê-vi, người gác cổng, ca sĩ, người phục dịch Đền Thờ, và tất cả những người Ít-ra-ên khác trở về sinh sống trong thành mình. Đến tháng bảy, người Ít-ra-ên từ các thành về tụ họp tại Giê-ru-sa-lem.

Nê-hê-mi 7:1-73 Thánh Kinh: Bản Phổ thông (BPT)

Sau khi vách thành đã được xây sửa xong và tôi đã lắp cửa, thì tôi chọn những người gác cửa, các ca sĩ và người Lê-vi. Tôi đặt Ha-na-ni, em tôi, cùng với Ha-na-nia, chỉ huy cung điện, chịu trách nhiệm canh giữ Giê-ru-sa-lem. Ha-na-nia là người lương thiện và kính sợ Thượng Đế hơn tất cả mọi người. Tôi bảo họ, “Không nên mở cổng thành Giê-ru-sa-lem cho đến khi mặt trời lên cao. Trong lúc các người gác cổng đang thi hành nhiệm vụ, bảo họ đóng cổng khóa chốt lại. Hãy cắt đặt những người ở Giê-ru-sa-lem làm lính tuần canh, đặt một số ở các vọng canh, một số canh ở nhà mình.” Thành phố thì rộng lớn bao la mà dân cư thì thưa thớt, nhà cửa cũng chưa xây cất lại. Cho nên Thượng Đế của tôi giục tôi triệu tập các người có uy tín, các lãnh tụ, và những thường dân để tôi đăng ký họ theo gia đình. Tôi tìm được gia phổ của những người đã hồi hương lần đầu tiên. Sau đây là những điều ghi trong các gia phổ đó: Dưới đây là những người trong vùng trở về nước sau cuộc lưu đày mà Nê-bu-cát-nết-xa, vua Ba-by-lôn đã bắt mang đi. Họ trở về Giê-ru-sa-lem và xứ Giu-đa, mỗi người trở về nguyên quán mình. Những người sau đây hồi hương cùng với Xê-ru-ba-bên, Giê-sua, Nê-hê-mi, A-xa-ria, Ra-a-mia, Na-ha-ma-ni, Mạc-đô-chê, Binh-san, Mích-phê-rết, Bích-vai, Nê-hum, và Ba-a-na. Sau đây là những người thuộc dân Ít-ra-en: con cháu Ba-rốt 2.172 người con cháu Sê-pha-tia 372 người con cháu A-ra 652 người con cháu Ba-hát Mô-áp (qua gia đình Giê-sua và Giô-áp) 2.818 người con cháu Ê-lam 1.254 người con cháu Xát-tu 845 người con cháu Xác-cai 760 người con cháu Binh-nui 648 người con cháu Bê-bai 628 người con cháu A-gát 2.322 người con cháu A-đô-ni-cam 667 người con cháu Bích-vai 2.067 người con cháu A-đinh 655 người con cháu A-te (qua Ê-xê-chia) 98 người con cháu Ha-sum 328 người con cháu Bê-xai 324 người con cháu Ha-ríp 112 người con cháu Ghi-bê-ôn 95 người Những người sau đây thuộc thị trấn Bết-lê-hem và Nê-tô-pha 188 người thuộc A-na-thốt 128 người thuộc Bết-A-ma-vết 42 người thuộc Ki-ri-át Giê-a-rim, Kê-phi-ra, và Bê-ê-rốt 743 người thuộc Ra-ma và Ghê-ba 621 người thuộc Mích-mát 122 người thuộc Bê-tên và A-hi 123 người thuộc Nê-bô thứ nhì 52 người thuộc thị trấn Ê-lam thứ nhì 1.254 người thuộc Ha-rim 320 người thuộc Giê-ri-cô 345 người thuộc Lót, Ha-đích, và Ô-nô 721 người thuộc Sê-na-a 3.930 người Sau đây là những thầy tế lễ: con cháu Giê-đai-gia, qua gia đình Giê-sua 973 người con cháu Im-mê 1.052 người con cháu Ba-sua 1.247 người con cháu Ha-rim 1.017 người Sau đây là những người Lê-vi: con cháu Giê-sua, qua Cát-miên, qua gia đình của Hô-đa-via: 74 người Sau đây là những ca sĩ: con cháu A-xáp 148 người Sau đây là những người gác cửa: con cháu Sa-lum, A-te, Thanh-môn, Ác-cúp, Ha-ti-ta, và Sô-bai 138 người Sau đây là những đầy tớ phục vụ trong đền thờ: con cháu Xi-ha, Ha-su-pha, Ta-ba-ốt, Kê-rốt, Sia, Ba-đôn, Lê-ba-na, Ha-ga-ba, Sanh-mai, Ha-nan, Ghi-đên, Ga-ha, Rê-ai-gia, Rê-xin, Nê-cô-đa, Ga-xam, U-xa, Ba-sê-a, Bê-sai, Mê-u-nim, Nê-phu-xim, Bác-búc, Ha-cu-pha, Ha-hua, Ba-lút, Mê-hi-đa, Hát-sa, Bát-cô, Xi-xê-ra, Thê-ma, Nê-xia, và Ha-ti-pha. Sau đây là con cháu của các đầy tớ Sô-lô-môn: con cháu Sô-tai, Sô-phê-rết, Phê-ri-đa, Gia-a-la, Đác-côn, Ghi-đên, Sê-pha-tia, Hát-tin, Bô-kê-rết Ha-xê-ba-im, và A-môn. Các đầy tớ phục vụ trong đền thờ của Sô-lô-môn tổng cộng là 392 người Một số người đến Giê-ru-sa-lem từ các thị trấn như Tê-Mê-la, Tê-Ha-sa, Kê-rúp, Ách-đôn, và Im-mê, nhưng họ không chứng minh được gốc gác tổ tiên mình là người Ít-ra-en. Sau đây là tên và nhân số của họ: con cháu Đê-lai-gia, Tô-bia, và Nê-cô-đa 642 người Các thầy tế lễ sau đây không chứng minh được gốc gác Ít-ra-en của mình: con cháu Hô-bai-gia, Hác-cô, và Bát-xi-lai. (Ai lấy con gái Bát-xi-lai vùng Ghi-lê-át thì được xem là dòng dõi Bát-xi-lai.) Những người đó sưu tầm gia phổ nhưng không tìm được. Nên họ không thể làm thầy tế lễ vì họ bị xem như không đủ năng cách. Quan tổng trấn ra lệnh cho họ không được phép ăn các thức ăn cực thánh cho đến khi một thầy tế lễ dùng U-rim và Thu-mim để giải quyết vấn đề nầy. Tổng số người hồi hương là 42.360. Trong số đó không kể 7.337 tôi trai tớ gái của họ và 245 nam nữ ca sĩ cùng về với họ. Họ có 736 con ngựa, 245 con la, 435 con lạc đà, và 6.720 con lừa. Một số các trưởng gia đình dâng công. Quan tổng trấn ứng vào ngân quỹ khoảng 19 cân vàng, 50 chén bát, và 530 bộ áo cho các thầy tế lễ. Một số trưởng gia đình dâng khoảng 375 cân vàng và 2.750 cân bạc vào ngân quỹ. Tổng số lễ vật của các người khác là khoảng 375 cân vàng, 2.500 cân bạc, và 67 bộ áo cho thầy tế lễ. Vậy tất cả những người sau đây định cư tại các tỉnh nhà của mình: các thầy tế lễ, người Lê-vi, những người gác cửa, các ca sĩ, các đầy tớ phục vụ trong đền thờ. Đến tháng bảy năm ấy, toàn dân Ít-ra-en đều đã định cư xong trong các thành mình.

Nê-hê-mi 7:1-73 Kinh Thánh Tiếng Việt, Bản Dịch 2011 (BD2011)

Sau khi tường thành đã được tái thiết, và tôi đã cho tra các cánh cửa ở các cổng thành vào, các đội ngũ canh gác, ca hát, và những người Lê-vi cũng đã được phân nhiệm, tôi lập Ha-na-ni em tôi làm thị trưởng, và Ha-na-ni-a làm người chỉ huy các binh sĩ bảo vệ thành ở Giê-ru-sa-lem, vì ông ấy là một người trung thành và kính sợ Đức Chúa Trời hơn nhiều người khác. Tôi truyền cho họ, “Đừng mở các cổng thành Giê-ru-sa-lem cho đến khi ánh nắng mặt trời lên. Hễ những người canh gác ban đêm còn đứng canh, các cổng thành vẫn phải đóng và cài then. Hãy cắt đặt dân cư Giê-ru-sa-lem thay phiên nhau canh gác. Một số sẽ đứng gác ở các trạm canh, và một số khác sẽ đứng gác trước nhà mình.” Khi ấy thành thì rộng và lớn, nhưng dân trong thành lại ít và nhà cửa chưa được xây dựng lại. Đức Chúa Trời của tôi giục lòng tôi để tôi mời các nhà quý tộc, các quan chức, và dân lại để họ ghi danh theo gia phả của họ. Tôi đã tìm được một sổ danh bạ những người hồi hương đợt đầu, trong đó có ghi như sau: Đây là những người ở các tỉnh từ chốn lưu đày trở về, những người trong số những người đã bị Nê-bu-cát-nê-xa vua Ba-by-lôn bắt đem đi lưu đày đã trở về Giê-ru-sa-lem và Giu-đa, ai về thành nấy. Những người cùng trở về với Xê-ru-ba-bên gồm có: Giê-sua, Nê-hê-mi-a, A-xa-ri-a, Ra-a-mi-a, Na-ha-ma-ni, Mạc-đô-chê, Bin-san, Mít-pê-rết, Bích-vai, Nê-hum, và Ba-a-na. Đây là con số những người I-sơ-ra-ên đã từ chốn lưu đày trở về: Con cháu của Pa-rốt, hai ngàn một trăm bảy mươi hai người. Con cháu của Sê-pha-ti-a, ba trăm bảy mươi hai người. Con cháu của A-ra, sáu trăm năm mươi hai người. Con cháu của Pa-hát Mô-áp, qua dòng dõi của Giê-sua và Giô-áp, hai ngàn tám trăm mười tám người. Con cháu của Ê-lam, một ngàn hai trăm năm mươi bốn người. Con cháu của Xát-tu, tám trăm bốn mươi lăm người. Con cháu của Xác-cai, bảy trăm sáu mươi người. Con cháu của Bin-nui, sáu trăm bốn mươi tám người. Con cháu của Bê-bai, sáu trăm hai mươi tám người. Con cháu của A-xơ-gát, hai ngàn ba trăm hai mươi hai người. Con cháu của A-đô-ni-cam, sáu trăm sáu mươi bảy người. Con cháu của Bích-vai, hai ngàn sáu mươi bảy người. Con cháu của A-đin, sáu trăm năm mươi lăm người. Con cháu của A-te, gia tộc của Hê-xê-ki-a, chín mươi tám người. Con cháu của Ha-sum, ba trăm hai mươi tám người. Con cháu của Bê-xai, ba trăm hai mươi bốn người. Con cháu của Ha-ríp, một trăm mười hai người. Con cháu của Ghi-bê-ôn, chín mươi lăm người. Dân Bết-lê-hem và Nê-tô-pha, một trăm tám mươi tám người. Dân A-na-thốt, một trăm hai mươi tám người. Dân Bết A-ma-vết, bốn mươi hai người. Dân Ki-ri-át Giê-a-rim, Kê-phi-ra, và Bê-e-rốt, bảy trăm bốn mươi ba người. Dân Ghê-ba và Ra-ma, sáu trăm hai mươi mốt người. Dân Mích-mát, một trăm hai mươi hai người. Dân Bê-tên và Ai, một trăm hai mươi ba người. Dân Nê-bô khác, năm mươi hai người. Con cháu của Ê-lam khác, một ngàn hai trăm năm mươi bốn người. Con cháu của Ha-rim, ba trăm hai mươi người. Con cháu của Giê-ri-cô, ba trăm bốn mươi lăm người. Con cháu của Lô, Ha-đi, và Ô-nô, bảy trăm hai mươi mốt người. Con cháu của Sê-na-a, ba ngàn chín trăm ba mươi người. Các tư tế: Con cháu của Giê-đa-gia, gia tộc của Giê-sua, chín trăm bảy mươi ba người. Con cháu của Im-me, một ngàn năm mươi hai người. Con cháu của Pát-khua, một ngàn hai trăm bốn mươi bảy người. Con cháu của Ha-rim, một ngàn mười bảy người. Những người Lê-vi: con cháu của Giê-sua, dòng dõi của Cát-mi-ên, gia tộc của Hô-đê-va, bảy mươi bốn người. Những người ca hát: con cháu của A-sáp, một trăm bốn mươi tám người. Những người canh cửa: con cháu của Sanh-lum, con cháu của A-te, con cháu của Tanh-môn, con cháu của Ạc-cúp, con cháu của Ha-ti-ta, con cháu của Sô-bai, một trăm ba mươi tám người. Những người phục vụ tại Đền Thờ: con cháu của Xi-ha, con cháu của Ha-su-pha, con cháu của Ta-ba-ốt, con cháu của Kê-rô, con cháu của Si-a, con cháu của Pa-đôn, con cháu của Lê-ba-na. con cháu của Ha-ga-ba, con cháu của Sanh-mai, con cháu của Ha-nan, con cháu của Ghít-đên, con cháu của Ga-ha, con cháu của Rê-a-gia, con cháu của Rê-xin, con cháu của Nê-cô-đa, con cháu của Ga-xam, con cháu của U-xa, con cháu của Pa-sê-a, con cháu của Bê-sai, con cháu của Mê-un, con cháu của Nê-phu-sê-sim, con cháu của Bác-búc, con cháu của Ha-cư-pha, con cháu của Hạc-hưa, con cháu của Ba-xơ-lít, con cháu của Mê-hi-đa, con cháu của Hạc-sa, con cháu của Ba-cốt, con cháu của Si-sê-ra, con cháu của Tê-ma, con cháu của Nê-xi-a, con cháu của Ha-ti-pha. Con cháu của các tôi tớ Sa-lô-môn: con cháu của Sô-tai, con cháu của Sô-phê-rết, con cháu của Pê-ri-đa, con cháu của Gia-a-la, con cháu của Đạc-côn, con cháu của Ghít-đên, con cháu của Sê-pha-ti-a, con cháu của Hát-tin, con cháu của Pô-kê-rết Ha-xê-ba-im, con cháu A-môn. Tất cả những người phục vụ ở Đền Thờ và con cháu của các tôi tớ Sa-lô-môn là ba trăm chín mươi hai người. Có những người từ Tên Mê-la, Tên Hạc-sa, Kê-rúp, Át-đôn, và Im-me cùng đi lên, nhưng họ không thể chứng minh được tổ tiên của họ hay liên hệ huyết thống trong gia tộc của họ, nên không thể định rõ họ có phải là người I-sơ-ra-ên chính thống hay không. Con cháu của Đê-la-gia, con cháu của Tô-bi-a, con cháu của Nê-cô-đa, sáu trăm bốn mươi hai người. Về các tư tế: con cháu của Hô-ba-gia, con cháu của Hắc-cô, con cháu của Bát-xi-lai –Ông ấy là người đã cưới một cô trong các con gái của Bát-xi-lai người Ghi-lê-át làm vợ và đã đổi họ để theo họ vợ– Những người ấy đã truy lục gia phả của họ, nhưng họ không thể tìm thấy gia tộc của họ được liệt kê trong đó, nên họ đã bị loại ra khỏi hàng tư tế và bị xem là không tinh ròng để thi hành chức vụ thánh. Do đó quan tổng trấn truyền cho họ không được ăn các món ăn cực thánh cho đến khi được một tư tế đứng ra dùng u-rim và thum-mim để xác quyết. Tổng cộng cả hội chúng được bốn mươi hai ngàn ba trăm sáu mươi người, không kể bảy ngàn ba trăm ba mươi bảy người là các tôi trai và tớ gái; trong vòng họ cũng có hai trăm bốn mươi lăm người, cả nam lẫn nữ, là thành viên của ca đoàn thờ phượng. Toàn dân có được bảy trăm ba mươi sáu con ngựa, hai trăm bốn mươi lăm con la, bốn trăm ba mươi lăm con lạc đà, và sáu ngàn bảy trăm hai mươi con lừa. Một số các trưởng tộc đã đóng góp vào quỹ tái thiết. Tổng trấn đóng góp vào trong kho một ngàn miếng vàng, năm mươi tô vàng, và năm trăm ba mươi bộ lễ phục cho các tư tế. Các vị trưởng tộc đã đóng góp vào trong kho hai mươi ngàn miếng vàng và hai ngàn hai trăm thỏi bạc. Dân chúng còn lại đã đóng góp hai mươi ngàn miếng vàng, hai ngàn thỏi bạc, và sáu mươi bảy bộ lễ phục cho các tư tế. Như vậy các tư tế, những người Lê-vi, những người canh cửa, những người ca hát, những người phục vụ nơi Đền Thờ, và một số người nữa, nói chung mọi người I-sơ-ra-ên đều được định cư trong các thành của họ. Đến tháng thứ bảy dân I-sơ-ra-ên đã ổn định chỗ ở trong các thành của họ.

Nê-hê-mi 7:1-73 Kinh Thánh Tiếng Việt Bản Hiệu Đính 2010 (VIE2010)

Sau khi tường thành đã xây xong, tôi tra các cánh cửa và lập những người gác cổng, các ca sĩ và người Lê-vi làm nhiệm vụ. Tôi giao việc cai trị Giê-ru-sa-lem cho em tôi là Ha-na-ni và cho Ha-na-nia là quản đốc kinh thành, vì ông là người trung tín và kính sợ Đức Chúa Trời hơn nhiều kẻ khác. Tôi dặn họ rằng: “Đừng mở các cửa Giê-ru-sa-lem trước khi mặt trời lên cao, và phải đóng cửa, cài then lại khi lính canh còn ở đó. Cũng phải chỉ định người dân ở Giê-ru-sa-lem thay phiên canh gác, người thì đứng ở vọng canh, người thì đứng đối diện nhà mình.” Thành thì rộng lớn nhưng cư dân trong thành ít ỏi và nhà cửa còn thưa thớt. Đức Chúa Trời thúc giục lòng tôi triệu tập những người quý tộc, các quan chức và dân chúng đến ghi tên theo gia phả. Tôi đã tìm được một cuốn gia phả của những người đã hồi hương lần đầu tiên và trong đó tôi thấy có ghi rằng: Đây là những người từ nơi lưu đày hồi hương, tức là những người bị vua Nê-bu-cát-nết-sa bắt đi Ba-by-lôn, nay họ trở về Giê-ru-sa-lem và Giu-đa, mỗi người về lại thành của mình. Họ trở về cùng với Xô-rô-ba-bên, Giê-sua, Nê-hê-mi, A-xa-ria, Ra-a-mia, Na-ha-ma-ni, Mạc-đô-chê, Binh-san, Mích-bê-rết, Biết-vai, Nê-hum và Ba-a-na. Đây là số những người nam trong Y-sơ-ra-ên được kiểm tra: Con cháu Pha-rốt có hai nghìn một trăm bảy mươi hai người. Con cháu Sê-pha-tia có ba trăm bảy mươi hai người. Con cháu A-ra có sáu trăm năm mươi hai người. Con cháu Pha-hát Mô-áp, tức là con cháu của Giê-sua và Giô-áp, có hai nghìn tám trăm mười tám người. Con cháu Ê-lam có một nghìn hai trăm năm mươi bốn người. Con cháu Xát-tu có tám trăm bốn mươi lăm người. Con cháu Xác-cai có bảy trăm sáu mươi người. Con cháu Bin-nui có sáu trăm bốn mươi tám người. Con cháu Bê-bai có sáu trăm hai mươi tám người. Con cháu A-gát có hai nghìn ba trăm hai mươi hai người. Con cháu A-đô-ni-cam có sáu trăm sáu mươi bảy người. Con cháu Biết-vai có hai nghìn không trăm sáu mươi bảy người. Con cháu A-đin có sáu trăm năm mươi lăm người. Con cháu A-te thuộc dòng dõi Ê-xê-chia có chín mươi tám người. Con cháu Ha-sum có ba trăm hai mươi tám người. Con cháu Bết-sai có ba trăm hai mươi bốn người. Con cháu Ha-ríp có một trăm mười hai người. Con cháu Ga-ba-ôn có chín mươi lăm người. Những người quê ở Bết-lê-hem và Nê-tô-pha có một trăm tám mươi tám người Những người quê ở A-na-tốt có một trăm hai mươi tám người. Những người quê ở Bết A-ma-vết có bốn mươi hai người. Những người quê ở Ki-ri-át Giê-a-rim, người Kê-phi-ra, và người Bê-ê-rốt, có bảy trăm bốn mươi ba người. Những người quê ở Ra-ma và Ghê-ba, có sáu trăm hai mươi mốt người. Những người quê ở Mích-ma có một trăm hai mươi hai người. Những người quê ở Bê-tên và A-hi có một trăm hai mươi ba người. Những người quê ở Nê-bô khác có năm mươi hai người. Con cháu Ê-lam khác có một nghìn hai trăm năm mươi bốn người. Con cháu Ha-rim có ba trăm hai mươi người. Con cháu Giê-ri-cô có ba trăm bốn mươi lăm người. Con cháu Lót, Ha-đít và Ô-nô có bảy trăm hai mươi mốt người. Con cháu Sê-na có ba nghìn chín trăm ba mươi người. Những thầy tế lễ: Con cháu Giê-đa-gia thuộc dòng dõi Giê-sua có chín trăm bảy mươi ba người. Con cháu Y-mê có một nghìn không trăm năm mươi hai người. Con cháu Pha-su-rơ có một nghìn hai trăm bốn mươi bảy người. Con cháu Ha-rim có một nghìn không trăm mười bảy người. Những người Lê-vi: Con cháu Giê-sua và Cát-mi-ên, thuộc dòng dõi Hô-đê-va có bảy mươi bốn người. Các ca sĩ: Con cháu A-sáp có một trăm bốn mươi tám người. Những người gác cổng: Con cháu Sa-lum, con cháu A-te, con cháu Tanh-môn, con cháu A-cúp, con cháu Ha-ti-ta và con cháu Sô-bai, có một trăm ba mươi tám người. Những người phục vụ đền thờ: con cháu Xi-ha, con cháu Ha-su-pha, con cháu Ta-ba-ốt, con cháu Kê-rốt, con cháu Si-a, con cháu Pha-đôn, con cháu Lê-ba-na, con cháu Ha-ga-ba, con cháu Sanh-mai, con cháu Ha-nan, con cháu Ghi-đên, con cháu Ga-ha, con cháu Rê-a-gia, con cháu Rê-xin, con cháu Nê-cô-đa, con cháu Ga-xam, con cháu U-xa, con cháu Pha-sê-a con cháu Bê-sai, con cháu Mê-u-nim, con cháu Nê-phu-sê-sim, con cháu Bác-búc, con cháu Ha-cu-pha, con cháu Ha-rua, con cháu Bát-lít, con cháu Mê-hi-đa, con cháu Hạt-sa, con cháu Bạt-cô, con cháu Si-sê-ra, con cháu Tha-mác, con cháu Nê-xia, con cháu Ha-ti-pha. Dòng dõi của các đầy tớ Sa-lô-môn: Con cháu Sô-tai, con cháu Sô-phê-rết, con cháu Phê-ri-đa con cháu Gia-a-la, con cháu Đạt-côn, con cháu Ghi-đên, con cháu Sê-pha-tia, con cháu Hát-tinh, con cháu Phô-kê-rết Hát-xê-ba-im, con cháu A-môn. Tổng số người phục vụ đền thờ và dòng dõi của các đầy tớ Sa-lô-môn là ba trăm chín mươi hai người. Sau đây là những người trở về từ Tên Mê-la, Tên Hạt-sa, Kê-rúp, A-đôn và Y-mê, nhưng họ không thể tìm ra tổ tiên hoặc nguồn gốc của họ thuộc về Y-sơ-ra-ên hay không: Con cháu Đê-la-gia, con cháu Tô-bi-gia và con cháu Nê-cô-đa có sáu trăm bốn mươi hai người. Còn những thầy tế lễ: Con cháu Ha-ba-gia, con cháu Ha-cốt, con cháu Bạt-xi-lai (là người lấy vợ trong số con gái của Bạt-xi-lai, người Ga-la-át nên được gọi bằng tên ấy). Những người nầy tìm kiếm tên mình trong gia phả nhưng không thấy nên bị loại ra khỏi chức tế lễ vì bị coi là ô uế. Quan tổng đốc cấm họ ăn những vật chí thánh cho đến khi có một thầy tế lễ dùng U-rim và Thu-mim để cầu hỏi Đức Chúa Trời. Cả hội chúng tổng cộng là bốn mươi hai nghìn ba trăm sáu mươi người, không kể bảy nghìn ba trăm ba mươi bảy tôi trai tớ gái của họ và hai trăm bốn mươi lăm ca sĩ, cả nam lẫn nữ. Họ có bảy trăm ba mươi sáu con ngựa, hai trăm bốn mươi lăm con la, bốn trăm ba mươi lăm con lạc đà và sáu nghìn bảy trăm hai mươi con lừa. Một vài trưởng tộc đã dâng hiến vào quỹ công trình. Quan tổng đốc dâng cho quỹ công trình khoảng tám ký rưỡi vàng, năm mươi chậu và năm trăm ba mươi bộ áo cho thầy tế lễ. Có mấy trưởng tộc dâng vào quỹ công trình khoảng một trăm bảy chục ký vàng và một nghìn hai trăm ký bạc. Dân chúng dâng phần còn lại, được khoảng một trăm bảy chục ký vàng, khoảng một nghìn một trăm ký bạc và sáu mươi bảy bộ áo thầy tế lễ. Như vậy, những thầy tế lễ, người Lê-vi, những người gác cổng, các ca sĩ, một số người khác và những người phục vụ đền thờ cùng cả Y-sơ-ra-ên đều ở trong thành của mình. Đến tháng bảy thì dân Y-sơ-ra-ên đều ở trong các thành của mình.